Results 1 to 7 of 7

Thread: Biệt Kích Quân mất tích

  1. #1
    Member
    Join Date
    25-01-2011
    Posts
    4,929

    Biệt Kích Quân mất tích

    (http://www.haingoaiphiemdam.com/News...t.aspx?Id=3345)



    Trong thập niên 1960, Hoa Kỳ đưa hàng trăm biệt kích quân Việt Nam xâm nhập vào miền bắc Việt Nam. Sau đó người Hoa Kỳ báo cáo là họ đă chết, nhưng nhiều biệt kích quân vẫn cố gắng sống sót qua các trại tù nơi miền bắc, để rồi chôn vùi câu chuyện trong “tấm vải liệm (xác chết)” nhiều năm. Có ít nhất 200 biệt kích quân Việt Nam đă sống sót qua thời gian tù đầy, tra khảo, đầy đọa và đă đến định cư tại Hoa kỳ. Họ tin rằng, vẫn c̣n 88 biệt kích quân, đồng đội của họ bị giam giữ. Các hoạt động bí mật, không thành công nơi miền bắc Việt Nam được biết có mật danh Oplan 34A (Kế Hoạch Hành Quân 34 Alpha). Do cơ quan Trung Ương T́nh Báo CIA khởi động từ năm 1961, đến năm 1964 bàn giao cho bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Hoa Kỳ, qua trung gian MACV. Theo những tài liệu, tờ báo New York Times sưu tầm được, Hoa Kỳ huấn luyện biệt kích quân Việt Nam, đưa họ xâm nhập vào miền bắc Việt Nam, rồi xoá tên từng người một trong sổ lương năm 1965. Nhiều biệt kích quân theo đạo Thiên Chúa Giáo, đă chạy trốn cộng sản trong những năm 1950, và biết tiếng tiếng điạ phương.
    Vài tài liệu nói về những cái chết của biệt kích quân trong toán Scorpion. Tuy nhiên đài phát thanh Hà Nội thông báo, và cơ quan CIA thâu lại, cho rằng toán biệt kích bị bắt sống trong tháng Sáu năm 1964. Nhiều biệt kích quân bị đầy đọa, giam cầm trong những điều kiện không thể diễn tả bằng lời nói được. Dầu sao chăng nữa, cơ quan CIA tuyên bố họ đă chết và trả cho gia đ́nh họ một số tiền khoảng 4000 đô la, cho sự hy sinh của họ.

    CÂU CHUYỆN CỦA BKQ Mộc A Tài (toán Dragon) bị giam cầm từ 1962-1982
    Nhóm “Biệt Kích Quân Bị Mất Tích” chúng tôi ḍ thám cho cơ quan CIA từ năm 1960, và bắt đầu nhẩy dù bí mật xuống miền bắc Việt Nam.
    Đến năm 1964, bộ Quốc Pḥng / TTM (Pentagon) Hoa Kỳ qủa quyết rằng, các biệt kích quân đă bị chết trong cảnh tù đầy, hoặc phải làm việc cho địch quân, và tiếp tục gửi ra ngoài bắc những toán biệt kích mới.
    Đến năm 1968, đă có khoảng 500 biệt kích quân bị bắt, giam cầm nơi miền bắc Việt Nam. Và gia đ́nh của các biệt kích quân được thông báo là họ đă chết. Hai mươi năm sau, hơn 500 biệt kích quân được trả tự do, từ những trại tù ngoài bắc. Nhiều biệt kích quân đă sống sót qua thời gian tù đầy, có người bị giam cầm gần 30 năm.
    Ngày 27 tháng Giêng năm 1973, hiệp định Paris được kư kết, có hiệu lực cho tất cả những ai liên quan đến cuộc chiến tranh Việt Nam. Các tù binh chiến tranh sẽ được trả tự do, và các biệt kích quân mong chờ ngày được trở về.

    TOÁN BIỆT KÍCH ATLAS, (3/1961)

    Toán biệt kích Atlas nhẩy dù ra ngoài bắc trong tháng Ba năm 1961, gồm có bốn người: trưởng toán Nguyễn Hữu Quang, ba toán viên, Nguyễn Hữu Hồng, Từ Đức Khải (chết trong lúc chiến đấu), và Trần Việt Nghiă.

    TOÁN BIỆT KÍCH CASTER, SƠN LA (27/5/1961)

    Toán biệt kích Caster dưới quyền chỉ huy của Hà Văn Chấp, cùng với các toán viên: Đinh Văn, Quách Thưởng, Phạm Công Thương được đưa vào Saigon, sau khi họ đă t́nh nguyện thi hành nhiệm vụ bí mật nơi miền bắc. Khi nhân viên pḥng 45 cho họ biết sẽ được thả dù xuống khu vực tỉnh Sơn La, họ cũng không thắc mắc về nhiệm vụ của toán biệt kích. Trong tháng Năm, toán biệt kích bốn người được đặt tên là Caster. Sau đó toán Caster nhẩy dù xuống tỉnh Sơn La trong khi các đơn vị vơ trang của miền bắc đang chờ đợi họ.
    Ít lâu sau khi bị bắt, nhân viên truyền tin bị ép buộc phải làm việc cho họ, Nha Phản Gián miền bắc. Anh ta báo cáo về Saigon rằng, toán biệt kích Caster đă đặt chân xuống miền bắc an toàn. Toán Caster vẫn tiếp tục hoạt động độc lập (thực ra đă bị bắt) cho đến tháng Bẩy năm 1963, khi cơ quan T́nh Báo CIA cho rằng đă mất liên lạc với toán biệt kích, lần cuối cùng toán Caster liên lạc được, ở trên đất Lào.


    TOÁN BIỆT KÍCH DRAGON, MÓNG CÁY (10/3/1962)

    Toán biệt kích Dragon hoạt động trong vùng Móng Cáy từ ngày 10 tháng Ba năm 1962 cho đến tháng Mười Một năm 1968.
    Các biệt kích quân trong toán Dragon sau khi đă hoàn tất khóa nhẩy dù, xử dụng vũ khí, mưu sinh và t́nh báo. Họ được huấn luyện đặc biệt thêm khoảng ba tháng trước khi được đưa đi xâm nhập vào miền bắc Việt Nam. Khoá huấn luyện này cho họ biết những tin tức mới nhất về chế độ cầm quyền miền bắc khi họ vào tiếp thu, kể từ năm 1954. Những tin tức mới này sẽ cho các biệt kích quân thêm khả năng mưu sinh nơi hậu phương địch. Toán biệt kích Dragon được đưa đi thăm trại tạm cư Sơn Trà, ngoại ô thành phố Đà Nẵng. Trại tạm cư này nhận những người tỵ nạn vượt tuyến từ ngoài bắc vào miền nam. Người mới đến phải khai báo và qua thủ tục hành chánh trước khi được đưa vào trong miền nam định cư.
    Buổi thuyết tŕnh do một sĩ quan Việt Nam đảm trách được một hồi chánh viên tháp tùng. Đề tài bao gồm: hệ thống hành chánh chế độ miền bắc, từ trung ương xuống đến làng xă, hệ thống an ninh, các đơn vị an ninh, quốc pḥng, tự vệ nơi miền bắc. Thuyết tŕnh viên cũng nói về đời sống dân chúng ngoài bắc, sự di chuyển, chế độ kiểm soát, hộ khẩu, v.v...
    Tất cả các biệt kích quân trong toán Dragon đều có gốc rễ nơi miền bắc. Họ nói rành ngôn ngữ, cách phát âm, biết rơ phong tục, tập quán điạ phương. Trong khóa huấn luyện, toán viên mới nhận ra ḿnh cần phải học hỏi nhiều danh từ mới, từ một chế độ mới nơi miền bắc. Những danh từ trước năm 1954, nay đă ít được xử dụng.
    Toán biệt kích Dragon gồm có: Mộc A Tài trưởng toán, và các toán viên Ṿng A Ung, Trênh A Sam, Giáp Tú Cam, Ṿng Hàng Quay, và Trần Văn Mẫn. Cả sáu người đều thuộc sắc tộc thiểu số Nùng. Họ phải ra đi xâm nhập ba chuyến trên các thuyền buồm (được đóng ở Đà Nẵng theo khuôn mẫu các tầu đánh cá ngoài bắc) Nautilis N1, N2, và N7, với nhiệm vụ nằm vùng lâu dài trong vùng Móng Cáy, sát biên giới với Trung Hoa.
    Toán Dragon được một người Hoa Kỳ tên là “Robert” (dấu tên thật, nhân viên CIA) thuyết tŕnh ở Saigon về nhiệm vụ tổng quát của toán biệt kích, phần chi tiết sẽ do các sĩ quan khác trong đơn vị. Toán Dragon sẽ tấn công một đài radar ngoài khơi bờ biển miền bắc, bắt liên lạc với những điệp viên gốc người Nùng do đại tá Ṿng A Sáng “gài” lại, trước khi đưa các đơn vị người Nùng di cư vào nam. Người thuyết tŕnh cho biết, đại tá Ṿng A Sáng đă ra lệnh cho một số thuộc cấp “nằm lại”, nhưng không c̣n liên lạc được nữa, sau năm 1954.
    Last edited by Nhân Dân Tự Vệ; 21-10-2012 at 12:35 PM.

  2. #2
    Member
    Join Date
    25-01-2011
    Posts
    4,929


    Trong khi toán Dragon chuẩn bị lên đường (xâm nhập bằng đường biển), một toán biệt kích nhỏ được thả dù xuống tăng cường cho toán biệt kích Europa. Chiếc phi cơ C-123, do phi công người Đài Loan (CIA trả lương) lái đâm vào một ngọn núi trên đất Lào trước khi đến điạ điểm thả dù, tất cả mọi người trên chiếc phi cơ đều tử nạn. Một nhóm nhân viên “bán quân sự” CIA đă đến quan sát chỗ phi cơ bị rơi xác nhận.
    Trong tháng Bẩy năm 1962, bộ trưởng Quốc Pḥng McNamara triệu tập một phiên họp gồm bộ Quốc Pḥng, Ngoại Giao và cơ quan T́nh Báo CIA, để thảo luận về việc bàn giao chương tŕnh 34A cho quân đội, trong kế hoạch “Trở Lại” (Switch Back). Đại tá George C. Morton, trưởng ban Chiến Tranh Ngoại Lệ, pḥng 3 Hành Quân trong bộ tư lệnh Quân Viện MACV cho rằng cần có sự tham dự của Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ. Đại tá Morton đă có thành tích “nằm vùng” ở Hy Lạp (Greece) trong đầu thập niên 1950, và được xem như chuyên gia về Chiến Tranh Ngoại Lệ.
    Đô đốc Felt, đốc thúc việc trả đũa, những vụ VC phá hoại đường rầy xe lửa trong miền nam bằng cách phá hoại đường rầy xe lửa từ miền bắc lên đến Trung Hoa. Ông ta c̣n đưa ra ư kiến, xử dụng tầu ngầm đưa biệt kích xâm nhập miền bắc, mà ông ta cho rằng miền bắc không đủ khả năng để chống lại.
    Đến tháng Chín, ủy ban Đặc Biệt “5412” trong hội đồng An Ninh Quốc Gia tán đồng ư kiến đô đốc Felt đưa ra trước đây, đề nghị xử dụng những tốc đỉnh phóng thủy lôi và đơn vị Người Nhái Hải Quân trong cuộc chiến bí mật chống lại miền bắc Việt Nam.
    Điệp viên Ares được đưa đi xâm nhập miền bắc bằng thuyền đổ bộ trong tháng Hai năm 1961. Ông ta vào đến khu vực đông bắc tỉnh Quảng Ninh một cách êm xuôi, và ít lâu sau báo cáo về Saigon. Đó là đường lối xử dụng nhân viên “bán quân sự” (điệp viên) của trùm CIA tại Việt Nam lúc bấy giờ, William Colby.
    Trong tháng Sáu năm 1962, toán biệt kích Eros gồm có năm người nhẩy dù xuống tỉnh Thanh Hóa. Chỉ ít lâu sau, toán biệt kích bị một đơn vị biên pḥng bắt sống, h́nh như địch quân đă biết trước, có toán biệt kích hoạt động trong khu vực. Và nhân viên truyền tin cũng bị ép buộc làm việc cho họ, gửi những báo cáo sai lạc về Saigon. Trước đó, trong tháng Tư, toán biệt kích Remus gồm có sáu người nhẩy dù xuống trên đất Lào để được an toàn, rồi xâm nhập khu vực Điện Biên Phủ bằng đường bộ. Toán biệt kích Remus vẫn... hoạt động cho đến năm 1968, đài phát thanh Hà Nội loan tin bắt được một toán biệt kích trong vùng hoạt động của toán Remus.
    Trong tháng Bẩy năm 1962, điệp viên Nguyễn Châu Thanh ra đi bằng thuyền, xâm nhập vào vùng biển Hà Tĩnh. Đúng ra chiếc thuyền Nautilus N3 có nhiệm vụ đưa anh ta đi, nhưng thay đổi vào giờ phút chót, một chiếc thuyền khác phải đưa đi. Sau khi xâm nhập được ít lâu, người điệp viên cũng bị phát giác và bị bắt.


    TOÁN BIỆT KÍCH EROS, THANH HÓA (6/1962)

    Toán biệt kích Eros gồm có năm người: trưởng toán Hà Trọng Thương (chết trong tù), Hà Công Quân (nhân viên truyền tin), Phạm Công Tiêu, Phạm Công Thương (truyền tin), và toán phó Phong Công Dung. Toán Eros nhẩy dù xuống Thanh Hóa trong tháng Sáu năm 1962, trốn tránh được ít lâu trước khi bị bắt.

    TOÁN BIỆT KÍCH SWAN, CAO BẰNG (4/9/1963)

    Toán biệt kích Swan nhẩy dù xuống tỉnh Cao Bằng ngày 4 tháng Chín, gồm có: trưởng toán Nông Công Định (bị xử tử), Lư A Nh́ (tử trận lúc chiến đấu), Đàm Văn Ngọ (nhân viên truyền tin), Đàm Văn Tôn (toán viên), Mă Văn Ban (toán viên) và toán phó Nông Văn Hinh.
    Toán biệt kích Bull nhẩy dù xuống vùng Hà Tĩnh ngày 7 tháng Mười. Toán Ruby bị lộ, bị truy lùng ngay khi vừa nhẩy dù xuống, cũng trong vùng Hà Tĩnh vào đầu tháng Mười Hai (5/12). Các biệt kích trong toán Ruby, cố lẩn tránh và di chuyển về hướng nam (miền nam), rồi bị bắt tại một nơi gần Quảng B́nh. Gần như lực lượng an ninh miền bắt bắt được cả toán biệt kích Ruby, họ đọc bản tin bắt được toán biệt kích Ruby trên đài phát thanh Hà Nội và cơ quan T́nh Báo CIA thâu được.
    Kế hoạch “Trở Lại” (Switch Back) bắt đầu từ ngày 22 tháng Giêng năm 1963. Cơ quan CIA bàn giao Hành Quân 34A cho quân đội, một trung tâm huấn luyện biệt kích ở Long Thành được xây dựng trong tháng Tư năm 1963. CIA bàn giao lại “tất cả”, kể cả các toán biệt kích đang “nằm vùng” hoặc đang bị cầm tù ngoài miền bắc. Huấn luyện viên về chất nổ Nguyễn Hưng kể lại “Larry Jackson là nhân viên CIA mà tôi liên lạc trong việc huấn luyện phá hoại bằng chất nổ, và ông ta vẫn làm việc với tôi cho đến khi Quân Đội đến thay thế trong mùa Xuân năm 1964. Bắt đầu từ mùa Hè năm 1963, Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ đă bắt đầu đến Long Thành.”
    Toán biệt kích Horse đă được tuyển mộ từ năm 1962, bây giờ chia xẻ kinh nghiệm với những chiến hữu mới. Trong mùa Thu năm 1965, chín biệt kích trong toán Dog và ba trong toán Easy-B nhẩy dù xuống tăng cường cho toán Easy (Toán Easy gồm 8 biệt kích đă nhẩy dù xuống miền bắc ngày 9/8/1963). Đến ngày 7 tháng Mười Một năm 1965, tám biệt kích trong toán Verse được thả xuống Sơn La, tăng cường cho toán Tourbillon. Tất cả các toán biệt kích đều được lính Bắc Việt tận t́nh “đón tiếp”.

    TOÁN BIỆT KÍCH ROMERO, QUẢNG B̀NH (19/11/1965)

    Cũng trong tháng đó (11/1965), toán biệt kích Romero gồm mười một người đă sẵn sàng lên đường. Cũng như các toán biệt kích trước khi lên đường, được đưa vào khu “cấm”. Nhiệm vụ cho toán Romero là nhẩy dù xuống thay thế cho một toán biệt kích khác, điều này làm cho biệt kích quân trong toán tin rằng, các toán biệt kích trước đây đă xâm nhập sâu vào miền bắc. Mặc dầu trong thời gian huấn luyện, họ chưa thấy ai ra đi... rồi trở lại, tuy nhiên sĩ quan huấn luyện vẫn trả lời rằng, các toán biệt kích vẫn hoạt động tốt đẹp nơi miền bắc, để cho mọi người an tâm. Riêng toán Romero được dặn ḍ, cứ ra ngoài bắc trước, rồi sẽ có lệnh sau.
    Toán biệt kích Romero gồm có: Trần Như Dần, Vũ Khắc Hải, Nguyễn Văn Hạnh, Hà Văn Hoan, Trần Văn Mẫn, Hoàng Hương, Đinh Hồng Nhi, Nguyễn Văn Tân, Lê Văn Thanh, Trần Thế Thức, Đỗ Ngữ Uông. Sáng ngày 19 tháng Mười Một, toán được một phi cơ Hoa Kỳ cất cánh từ Long Thành chở ra căn cứ hành quân tiền phương Khe Sanh. Và chiều hôm đó, toán biệt kích lên hai trực thăng, trên chiếc thứ ba có người Hoa Kỳ và sĩ quan hành quân Việt Nam bay theo.
    Đoàn trực thăng bay với cao độ thấp ṿng qua nước Lào trước khi xâm nhập vào miền bắc Việt Nam. Khoảng bốn, năm giờ chiều, hai chiếc trực thăng thả toán biệt kích nơi một khu vực gần biên giới Lào-Việt và đường ṃn HCM, trong quận Lệ Thủy, tỉnh Quảng B́nh. Toán biệt kích nhanh chóng đem đồ tiếp liệu xuống và di chuyển xa ra khỏi băi đáp trực thăng.
    Toán Romero báo cáo về căn cứ hành quân tiền phương Khe Sanh, đă xuống băi đáp an toàn và bắt đầu di chuyển đến điểm tập họp đă dự trù trước. Khi toán biệt kích di chuyển, họ mới biết rằng, đoạn đường rừng mười cây số sẽ phải mất năm ngày, v́ điạ thế hoàn toàn khác hẳn với trên bản đồ (khu vực bị bom tàn phá).
    Rồi toán biệt kích khám phá ra thêm, trực thăng đă đưa họ đến không đúng băi đáp trực thăng, như đă dự trù trong lệnh hành quân. Toán Romero rơi vào t́nh trạng rối trí, không xác định được điểm đứng, vị trí của toán biệt kích, cũng như băi đáp trực thăng mà họ xuống.
    Toán biệt kích Romero báo cáo về và được xác nhận đúng, họ đă bị đưa đến sai băi đáp, và được lệnh, đợi quyết định của cấp chỉ huy ở trên cao. Toán biệt kích cũng không ngờ, thời gian nằm chờ lệnh trong một khu rừng, điạ thế xa lạ, rất căng thẳng, kéo dài đến sáu tuần lễ (?), thực phẩm đem theo gần cạn. Rồi chuyện xui xẻo xẩy ra, bộ chỉ huy trong Saigon đă xác định được vị trí của toán biệt kích Romero và ra lệnh cho họ chuẩn bị băi đáp trực thăng để tiếp tế.
    Toán biệt kích làm theo lời dặn, chặt cây, dọn dẹp làm băi đáp, họ trải mấy tấm panô theo h́nh chữ “T” đánh dấu vị trí cho phi cơ thả đồ tiếp liệu (thả bằng phi cơ, đồ tiếp liệu chứa trong qủa bom Napalm giả). Nghe tiếng động cơ máy bay, toán biệt kích sững sờ nh́n đồ tiếp tế bay cách xa băi đáp khoảng năm cây số... và với điạ thế trong khu vực họ phải đi mấy ngày đường.
    Trong khi nh́n những sự “ngu xuẫn” từ trên trời, các biệt kích quân nghe tiếng người cười nói, tiếng tát nước phát ra từ một con suối gần đó. Để an toàn khu vực toán biệt kích Romero đang trú ẩn, các biệt kích ṃ đến con suối, ḍ thám. Họ theo dơi năm người lính Bắc Việt, xếp gạch xây cái bếp con để nấu cơm, ăn uống rồi giăng vơng như sắp sửa đi ngủ. Mấy người lính Bắc Việt rất tự nhiên, không dè đang bị lính biệt kích trang bị đến tận răng theo dơi.
    Toán biệt kích bàn với nhau, vẫn c̣n lâu mới đến thời gian lên máy truyền tin báo cáo, nên không thể yêu cầu oanh kích bằng phi cơ. Hiện tại đă mất đồ tiếp tế, nếu xin tiếp tế một chuyến khác, địch quân sẽ phát giác ra toán biệt kích. Cuối cùng các biệt kích quân quyết định, bất ngờ xông vào bắt sống năm tên lính Bắc Việt.
    Năm người lính Bắc Việt thuộc đơn vị biên pḥng tỉnh Quảng B́nh. Toán Romero được biết đơn vị biên pḥng Bắc Việt đă báo động có toán biệt kích trong khu vực và đang đi t́m. Có lẽ do một người dân đi rừng trông thấy trực thăng chở toán biệt kích bay vào. Theo lời khai của “tù binh”, hệ thống biên pḥng nơi miền bắc rất chặt chẽ, tất cả mọi người dân, mọi ngôi làng đều báo lên ban chỉ huy đơn vị biên pḥng, mỗi khi trông thấy các loại tầu bay của Hoa Kỳ.
    Toán biệt kích Romero đă được huấn luyện ở Long Thành, phải giết địch quân ngay tức khắc, để bảo mật cho chuyến công tác và an toàn cho toán biệt kích. Nhưng hiện tại, toán Romero đă biết, địch đă phát giác có toán biệt kích xâm nhập và đang đi lùng bắt.
    Khi được huấn luyện là một chuyện, nhưng khi đối mặt với thực tế là chuyện khác... sau ba ngày nặng đầu suy nghĩ, người biệt kích trưởng toán Romero ra lệnh thả tự do năm người lính Bắc Việt, rồi toán biệt kích di chuyển ngay lập tức để trốn tránh. Chuyện này họ không báo cáo về bộ chỉ huy Nha Kỹ Thuật, đơn vị SOG trong Saigon.
    Sau một tuần lễ lẩn trốn, ngày 14 tháng Giêng năm 1966, toán biệt kích Romero bị bao vây bởi đơn vị biên pḥng và tự vệ điạ phương. Năm người lính Bắc Việt đă chạy về đơn vị, báo cáo lên cấp chỉ huy của họ về toán biệt kích.
    Sau khi bị bắt, tất cả đều bị trói tay ra đằng sau bằng dây điện thoại. Hai biệt kích quân mang máy truyền tin được đưa đi riêng ra và bị ép buộc phải làm việc cho đơn vị phản gián, chống biệt kích, gián điệp miền bắc. Sau đó họ đưa toán biệt kích Romero đến nhà tù trong trị trấn Đồng Hới, thật ra là những túp lều tranh, v́ cả thành phố đă bị không quân Hoa Kỳ oanh kích tan nát. Đó là “nhà” của toán biệt kích Romero trong sáu tuần lễ sắp đến.
    Last edited by Nhân Dân Tự Vệ; 21-10-2012 at 12:39 PM.

  3. #3
    Member
    Join Date
    25-01-2011
    Posts
    4,929


    TOÁN BIỆT KÍCH HECTOR

    Đại úy Nguyễn Hữu Luyện, một sĩ quan làm việc cho Nha Kỹ Thuật, có nhiều kinh nghiệm huấn luyện, có tinh thần trách nhiệm và chống cộng. Ông ta muốn chứng minh chương tŕnh “nằm vùng” dài hạn có kết qủa. Để thực hiện điều đó, ông ta tuyển mộ, chọn lựa, lấy những thanh niên trẻ, t́nh nguyện và có tŕnh độ học vấn lớp mười một, lập một toán lớn (đông người) có tên là Bắc B́nh. Đại úy Luyện sẽ đích thân theo dơi việc huấn luyện cho toán biệt kích mới này, đưa họ xâm nhập vào miền bắc và đem họ trở về an toàn. Ông ta tiên đoán rằng, những toán viên sau này sẽ trở thành những cán bộ ṇng cốt, huấn luyện các toán mới. Khi ông Luyện giải thích điều này cho toán biệt kích, một vấn đề gặp phải là khi đă xâm nhập vào miền bắc, toán biệt kích không thể biết rơ chính xác vị trí của ḿnh để báo cáo.
    Toán Bắc B́nh bắt đầu việc huấn luyện trong tháng Mười Một năm 1965. Đại úy Luyện đích thân chỉ huy việc huấn luyện, ông ta cố gắng huấn luyện một toán lớn để có thể chia ra làm bốn toán nhỏ. Đến tháng Sáu năm 1966, việc huấn luyện toán biệt kích Bắc B́nh (tên Việt Nam) hoàn tất, và các biệt kích quân đă sẵn sàng lên đường.
    Toán Bắc B́nh, khởi thủy có hơn bốn mươi người, sau khi huấn luyện xong, chỉ c̣n không tới ba mươi người nên chỉ có thể chia thành hai toán nhỏ. Toán Bắc B́nh 1, bầu Bùi Quang Cát làm trưởng toán, đại úy Luyện tự nguyện đi theo toán biệt kích để cố vấn. Toán biệt kích được đưa vào khu cấm trong tháng Sáu và đổi tên là Hector-1.
    Ngày 22 tháng Sáu năm 1966, toán biệt kích Hector-1 được trực thăng đưa đi theo lộ tŕnh cũ của mấy toán biệt kích ra đi trước đó. Đầu tiên họ được đưa qua Thái Lan, sau đó trực thăng sẽ đưa toán biệt kích băng qua đất Lào, xâm nhập vào phiá tây tỉnh Quảng B́nh. Toán biệt kích vào khu vực hoạt động an toàn, họ lập căn cứ hành quân, và hoạt động được một tháng.
    Đại úy Luyện, cùng với trưởng toán biệt kích Hector-1, Bùi Quang Cát và hai toán viên, Đinh Văn Vương, Nguyễn Mạnh Hải đi đến một ngôi làng nhỏ nơi miền núi, để gặp những người dân làng. Nhiều toán viên cho rằng, điều đó nguy hiểm, nhưng ông Luyện trấn an họ, sẽ không sao, họ sẽ đi đến làng rồi trở về b́nh an, vô sự. Khi bốn quân nhân biệt kích đến làng, những người dân làng bảo họ ngồi chờ, nhưng đi báo lực lượng an ninh trong làng và kết qủa, cả bốn người đều bị bắt.
    Những biệt kích quân c̣n lại trong toán Hector-1 ở căn cứ chờ đợi. Đúng ra họ phải làm đúng theo thủ tục “những điều cần phải làm”. Đợi đại úy Luyện và ba người kia, nếu không quay trở lại trong ṿng ba tiếng đồng hồ, họ phải di chuyển căn cứ hoạt động. Nhưng toán biệt kích Hector-1 đợi đến năm tiếng đồng hồ. Trong khi đó lực lượng an ninh miền bắc, ép buộc người trưởng toán biệt kích dẫn dắt nhân viên an ninh, biên pḥng đến căn cứ của toán biệt kích Hector-1 bắt tất cả những biệt kích quân c̣n lại. Cũng như số phận những toán biệt kích trước đó, hai nhân viên truyền tin, bị đưa đi riêng, ép buộc phải làm việc cho Hà Nội.
    Ngày 13 tháng Chín năm 1966, phần c̣n lại của toán Bắc B́nh, gọi là toán biệt kích Hector-2 được đưa vào khu cấm trong căn cứ Long Thành để nghe thuyết tŕnh về nhiệm vụ do một thiếu tá Lục Quân Hoa Kỳ và đại úy Dũng làm thông ngôn đảm trách. Toán biệt kích Hector-2 có nhiệm vụ ḍ thám hệ thống đường ṃn HCM. Chi tiết sẽ thuông báo sau, khi toán biệt kích đă đặt chân lên đất bắc. Nhiệm vụ cho toán Hector-2 dự trù sẽ kéo dài hai năm, và các biệt kích quân sẽ được thông báo nhiệm vụ mới hàng tháng tùy theo nhiệm vụ và t́nh h́nh.
    Đại úy Dũng nói thêm, toán Hector-2 c̣n có nhiệm vụ đi t́m toán Hector-1, nếu t́m được báo cáo về bộ chỉ huy. Sau khi Nha Kỹ Thuật mất liên lạc với toán biệt kích Hector-1, đích thân đại úy Dũng ngồi trên một máy bay thám thính L-19 đi t́m. Ông ta chụp mấy tấm ảnh vị trí mà đúng ra toán Hector-1 phải có mặt, nhưng không thấy dấu hiệu ǵ của toán biệt kích. Đại úy Dũng nhấn mạnh sợi dây liên hệ giữa hai toán biệt kích Hector 1 và 2, ông ta muốn toán Hector-2 có trách nhiệm tinh thần đối với Hector-1. Toán Hector-1 đi trước để lập căn cứ hoạt động cho cả hai toán Hector. Nhưng lúc đó, Hector-1 đang mong Hector-2 đến cứu họ.
    Đặng Đ́nh Thúy (thiếu úy), cố vấn quân sự cho toán Hector-2 hối thúc cho toán biệt kích lên đường sớm. Các biệt kích quân khác cũng đồng ư, họ vẫn tin rằng, đại úy Luyện vẫn có đủ khả năng mưu sinh, thoát hiểm. Tất cả toán Hector-2 chấp nhận lời nhận định của đại úy Dũng, có lẽ Hector-1 đang thất lạc trên núi.
    Đại úy Dũng xem xét lại nhiệm vụ, vị trí trong toán biệt kích của từng cá nhân. Trưởng toán biệt kích Hector-2 là Mai Nhuệ Anh, toán phó là Vũ Văn Chi. Khi trực thăng chở toán biết kích đáp xuống miền bắc, người nhẩy ra đầu tiên là Hoàng Đ́nh Kha, anh ta có nhiệm vụ quan sát khu vực xung quanh băi đáp (an ninh). Các toán viên khác có nhiệm vụ khiêng những thùng lớn chứa đồ tiếp liệu, dụng cụ xuống.
    Những tấm không ảnh cho biết băi đáp trực thăng xâm nhập là một chấm nhỏ, trong khu vực hoạt động rộng khoảng 5000 cây số vuông của toán biệt kích Hector-2. Khu vực này được chọn v́ nằm gần đường ṃn HCM và không gần những ngôi làng nhỏ... Hy vọng toán biệt kích sẽ được an toàn khi xâm nhập.
    Toán biệt kích được cho biết, loại trực thăng chở toán biệt kích xâm nhập là loại mới, bay nhanh, quân đội Hoa Kỳ mới đem qua vùng Đông Nam Á 40 chiếc để thả biệt kích. Bên trong trực thăng đủ rộng để chở dụng cụ, đồ tiếp liệu cho toán biệt kích, không lo chuyện thả dù thất lạc (có lẽ loại trực thăng CH-53. Người Hoa Kỳ không viện trợ cho QL/VNCH loại trực thăng này cũng như trực thăng vơ trang Cobra). Tất cả mọi việc đều được xắp xếp, chuẩn bị chu đáo để toán biệt kích Hector-2 hoàn thành nhiệm vụ trao phó.
    Sau đó toán Hector-2 được phi cơ Hoa Kỳ đưa đến căn cứ không quân Udorn bên Thái Lan, căn cứ này rất rộng lớn của Đệ Thất Không Lực Hoa Kỳ. Tiếp theo, toán biệt kích lên trực thăng và được bay ngang qua đất Lào, xâm nhập vào miền bắc Việt Nam.
    Như đại úy Dũng đă thuyết tŕnh, băi đáp có vẻ hoang vu, không có người, cách xa làng mạc, trạm lính Bắc Việt. Trong khu vực có gịng suối nước chẩy róc rách, các biệt kích quân có thể h́nh dung thú rừng đi ăn đêm, ṃ xuống suối uống nước. Điạ điểm quá lư tưởng và rất an toàn cho toán biệt kích xâm nhập. Từ đó toán Hector-2 có thể xuất phát những chuyến xâm nhập, ḍ thám đường ṃn HCM.
    Hợp đoàn trực thăng bay vào băi đáp, đại úy Dũng cùng viên thiếu tá Hoa Kỳ đưa toán biệt kích đi xâm nhập, cũng phụ một tay khiêng những thùng đồ tiếp liệu ra nhanh chóng. Ai cũng cười nói vui vẻ, các biệt kích quân cũng vui vẻ (như đi cắm trại), đưa tay lên vẫy khi trực thăng cất cánh bay trở về căn cứ không quân Udorn.
    Chưa được năm phút, từng tràng đạn tiểu liên AK-47 bắn vào toán biệt kích đang xắp xếp những thùng chứa đồ tiếp liệu, vẫn c̣n trong băi đáp trực thăng. Mọi người nhận thức nhanh chóng, họ đă lọt vào bẫy.
    Toán phó Vũ Văn Chi, cùng với một biệt kích tên Huân bắn trả lại làm địch im tiếng súng và như tan biến đi. Huân tiến lên, về hướng tiếng súng của địch, rồi bất ngờ tiếng súng đại liên nổ ḍn, làm anh ta trúng đạn, ngă xuống. Sau đó tiếng súng gia tăng cường độ, Hoàng Đ́nh Kha bị trúng đạn vào tim, chết tức khắc, máu chẩy ra lênh láng trên mặt đất. Tiếng súng đại liên, tiểu liên của địch vẫn nổ đều, có lẽ họ muốn giết tất cả toán biệt kích Hector-2, thay v́ bắn phủ đầu để tiến lên bắt sống.
    Thiếu úy Đặng Đ́nh Thúy chỉ huy ba biệt kích quân chống trả, ông ta bị thương vào tay. Một biệt kích quân bị trúng đạn vào đùi, hai người khác đă trúng đạn nằm chết. Toán biệt kích Hector-2 bố trí rải rác xung quanh băi đáp trực thăng, chờ đợi “đ̣n” kế tiếp của lực lượng an ninh, biên pḥng miền bắc. Nhưng địch quân chỉ củng cố lại vị trí, chứ chưa dám xung phong.
    Đến sáng hôm sau, trời mưa tầm tă, toán biệt kích Hector-2 đă phân tán ra từng toán nhỏ, chuẩn bị rút ra khỏi băi đáp “Tử Thần”, tận dụng khả năng mưu sinh, thoát hiểm.
    Đêm trước, toán phó Vũ Văn Chi, Nguyễn Ngọc Nghiă và Tống Văn Thái đă chạy thoát ra khỏi băi đáp đến một hang động lớn. Họ định sáng hôm sau đi tiếp, nhưng lính Bắc Việt đă đến bao vây. Họ kêu gọi ba người lính biệt kích bước ra khỏi hang, đầu hàng. Chi căn dặn Nghiă và Thái, để anh ra trước, nếu bị họ bắn, cả ba sẽ chiến đấu cho đến hết đạn rồi tự sát. Chi bước ra khỏi hang, bị tước khí giới và trói bằng dây điện thoại. Hầu hết những biệt kích quân sống sót trong toán Hector-2, đều bị bắt trong buổi sáng hôm đó. Riêng hiệu thính viên Nguyễn Văn Định lẩn trốn trong rừng được tám ngày mới bị bắt.
    Bị tấn công bất ngờ, quá sớm, toán biệt kích Hector-2 chưa kịp báo cáo về Nha Kỹ Thuật. Trong thời gian huấn luyện ở Long Thành, toán biệt kích đă được dặn ḍ, phải báo cáo về trong ṿng hai mươi phút, sau khi xuống băi đáp. Hơn nữa, hiệu thính viên Nguyễn Văn Định lẩn trốn được đến tám ngày. Người hiệu thính viên thứ hai là Nghiă bị bắt vào sáng hôm sau cùng với toán phó Vũ Văn Chi, cũng đă quá thời hạn phải báo cáo. Điều này Nha Kỹ Thuật trong Saigon cũng có thể suy luận ra, toán biệt kích Hector-2 đă bị bắt, bị giết (đúng cả hai).
    Sau khi bị bắt và gom lại, toán biệt kích biết được lính Bắc Việt tấn công họ thuộc trung đoàn biên pḥng. Họ đóng quân dọc theo con đường chiến lược, làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh cho các đơn vị Bắc Việt trên đường di chuyển qua Lào ngang qua tỉnh Quảng b́nh. Lính Bắc Việt trong đơn vị biên pḥng này phát âm giọng Quảng B́nh, họ được sự hỗ trợ của các huyện đội điạ phương, để bảo đảm các biết kích quân không thể chạy thoát.
    Hector-1: Nguyễn Hữu Luyện, Bùi Quang Cát, Vũ Đ́nh Giao, Nguyễn Mạnh Hải, Nguyễn Ngọc Lâm, Hoàng Đ́nh Mỹ, Trần Hữu Thức, Nguyễn Văn Thụy, Trần Văn Tiếp, Đỗ Văn Tỉnh, Nguyễn Văn Toàn, Đỗ Văn Tự, Trần Hữu Tuấn, Đinh Văn Vương, Mai Nhuệ Anh, Nguyễn Văn Do, Nguyễn Văn Dũng, Lê Ngọc Kiên, Âu Dương Quy, Hà Trung Huân.
    Hector-2: Đặng Đ́nh Thụy, Vũ Văn Chi, Nguyễn Văn Định, Hoàng Đ́nh Kha, Nguyễn Ngọc Nghiă, Tống Văn Thái, Trương Sĩ Bảo, Ngô Phương Hải, Mai Văn Học, Nguyễn Văn Huân, Nguyễn Văn Hùng, Phạm Ngọc Linh, Nguyễn Văn Thắm, Vũ Văn Tuấn, Nguyễn Duy Vương, Nguyễn Văn Nuôi, Nguyễn Ngọc Anh, Nguyễn Như Anh, Nguyễn Đ́nh Lành, Trần Quốc Quang, Nguyễn Cao Sơn, Trương Nam Trang, Hoàng Văn Trường, Nguyễn Văn Trường, Nguyễn Tiến Đạo, Trần Văn Tú, Lâm Lợi, Thạch Phan, Xiêng Sơn.

  4. #4
    Member
    Join Date
    25-01-2011
    Posts
    4,929


    BẮT ĐẦU CHƯƠNG CUỐI

    Trong mùa Hè năm 1967, đơn vị MACV-SOG gửi những điện văn sai lạc cho những toán biệt kích hoạt động nơi miền bắc, như toán biệt kích Hadley. Đó là một trong những chương tŕnh nhằm đánh lạc hướng, quấy rối miền bắc.
    Sau khi chính quyền Hoa Kỳ ra lệnh ngưng thả bom miền bắc từ mùa Xuân năm 1968, một toán chuyên viên t́nh báo CIA, bộ Quốc Pḥng Hoa Kỳ đến Saigon (MACV-SOG) để nghiên cứu t́nh trạng an ninh của các toán biệt kích hoạt động ngoài bắc, dựa vào những điện văn gửi đến và đi các toán. Và đến mùa Hè, họ kết luận tất cả các toán biệt kích hoạt động nơi miền bắc đều nằm trong tay địch quân.
    Toán chuyên viên cũng cho rằng điệp viên đơn độc (singleton) Ares cũng đă bị bắt luôn. Điều này làm các sĩ quan trong đơn vị MACV-SOG nghiến răng, nhớ lại năm 1964, sau chuyến thả bom miền bắc lần đầu tiên, hôm 5 tháng Tám, điệp viên Ares đă tỏ vẻ vui sướng, thích tiếp tục dội bom.

    CHUẨN BỊ TRAO TRẢ TÙ BINH

    Đến cuối năm 1971, các tù binh biệt kích được giam giữ trong ba nhà tù chính (national level): nhà tù Trung Ương số 1, ngoại ô thị trấn Lào Cai, gần biên giới Việt-Trung, nhà tù Tân Lập gần Phú Thọ, trong đồng bằng sông Hồng, về hướng tây nam Hà Nội, và nhà tù Hoành Bộ trên những ngọn đồi nơi hướng đông bắc thành phố ven biển Ḥn Gai. Những điệp viên đơn độc (singleton) được phân phối ra một trong ba nhà tù kể trên, như vậy chính quyền Hà Nội có xắp xếp trong việc giam giữ tù binh.
    Những người tù đầu tiên được đưa từ trại tù Phong Quang ra Tân Lập hay Hoành Bộ là những hiệu thính viên trong các toán biệt kích. Trại tù Tân Lập cũng giam giữ nhiều biệt kích quân bị bắt trên đất Miên và Lào. Nhóm tù cuối cùng rời Phong Quang có 47 nguời tù biệt kích mà chính quyền miền bắc liệt kê họ vào thành phần “Không thể cải tạo được”. Họ được đưa đến nhà tù “Phố Lu”, một tên thường gọi cho nhà tù Trung Ương số 1.
    Đến nhà tù “Phố Lu”, họ được chia vào trại K1, lúc đó không có tù nhân, chỉ có vài người đang xây thêm một láng (barrack) thứ ba. Tại đây họ gặp lại Lầu Chí Chấn, người nhái trong toán Cancer, mà lần đầu tiên gặp ở Thanh Tŕ. Chấn lúc đó là người tù thợ mộc. Đầu năm 1972, một toán tù biệt kích khác được đưa từ nhà tù Quyết Tiến lên Phố Lu, nâng tổng số tù biệt kích lên 167 người. Hai nhóm tù biệt kích được giam trong hai láng phân biệt, có tường ngăn cách.
    Trong tháng kế tiếp, những người tù biệt kích được “học tập” đề tài “Trao trả tù binh” và trong thời gian này họ không phải đi lao động. Và họ được cán bộ chính trị “an ủi” rằng “Thực sự, Nhà Nước có nghĩ đến các anh, và hy vọng các anh được trở về với gia đ́nh. Đó là do các anh tấn công chúng tôi. Chính các anh xâm lăng miền bắc, với ư đồ lật đổ chính quyền. Các anh đă vi phạm luật pháp của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa. Đúng ra các anh không được trả tự do, nhưng v́ chính sách khoan hồng của Nhà Nước, Nhà Nước sẽ cứu xét hồ sơ các anh để quyết định, các anh có được trở về với gia đ́nh hay không”.
    Ngày 27 tháng Giêng năm 1973, hiệp định Đ́nh Chiến Paris được kư kết. Các tù biệt kích trong nhà tù Phố Lu được đọc vài điều khoản trong hiệp định. Họ phấn khởi tin rằng sắp được trả tự do. “Tất cả những ai liên quan đến cuộc chiến tranh Việt Nam đều được trao trả”.
    Các tù binh biệt kích được đưa trở về trại K1 trong tháng Hai năm 1973, cán bộ đem vào trại máy may để may quần áo mới. Chiếc máy may làm việc 24 tiếng đồng hồ một ngày hoàn tất nhiệm vụ nhanh chóng. Mỗi người tù được hai bộ quần áo mới, túi vải để đựng hành trang và mũ vải. Nhưng cán bộ thâu tất cả lại, cất vào kho, sẽ phát cho tù nhân đúng lúc (trao trả tù binh).
    Vài tuần lễ sau, trong thời gian vấn đề trao đổi tù binh vẫn đang diễn ra, các tù biệt kích muốn t́m một cán bộ nhà giam để hỏi, khi nào họ sẽ được trao trả (về miền nam) và như thế nào. Họ không thể gặp vị chỉ huy trại giam, thiếu tá Ngô Bá Toàn, v́ ít khi ông ta vào trong khu nhốt tù. Cuối cùng họ gặp thiếu úy Xy, trưởng ban “cải huấn” và phụ tá của ông ta, thượng sĩ Hào Liêu. Câu trả lời thẳng thừng của họ làm các biệt kích quân như trên trời rơi xuống đất.
    “Đừng mong!”, hai người cán bộ vừa cười vừa trả lời. “Đừng mong, một người nào trong các anh được trao trả. Nếu các anh đọc kỹ bản hiệp định, không có điều khoản nào nhắc nhở đến các anh. Hoàn toàn không! Tuyệt đối không!”
    “Có mà. Tất cả những ai liên quan đến cuộc chiến Việt Nam.”
    Cán bộ Xy chỉ lắc đầu cười. Các biệt kích quân có cảm tưởng như trời đất đang xụp đổ. Cứ mỗi đêm, họ được nghe đài phát thanh Quân Đội Nhân Dân qua loa phóng thanh về các cuộc trao đổi tù binh bên bờ sông Thạch Hăn. Số tù binh được trả lại cho miền bắc nhiều gấp ba bốn lần số được trả lại cho miền nam. Rồi đến lượt các tù binh Hoa Kỳ được trao trả...
    Bắt đầu từ tháng Hai năm 1973, các tù binh Hoa Kỳ bị giam giữ ở Hà Nội được chuyển giao cho đại diện Hoa Kỳ và đưa sang căn cứ không quân Clark ở Philippines. Tại đây, các tù binh Hoa Kỳ được khám sức khoẻ, qua thủ tục “an ninh”. Một thiếu tá Lục Quân đưa một số người đại diện các cơ quan dân chính (của Hoa Kỳ) từ Saigon bay qua Philippines để nghe những tù binh Hoa Kỳ trở về thuyết tŕnh.
    Những người đại diện có thể đặt những câu hỏi liên quan tới vấn đề tù binh chiến tranh đă được cơ quan An Ninh Quốc Pḥng định nghiă. Cũng cơ quan này trong năm 1965 đă ủng hộ đơn vị MACV-SOG và cho rằng nhũng biệt kích quân xâm nhập miền bắc đă đem về nhiều tin tức t́nh báo giá trị.
    Nhưng không may cho vị đại diện cho cơ quan An Ninh Quốc Pḥng (DIA), trung tá Hải Quân Charles Trowbridge, ông ta không có hồ sơ nào về các biệt kích quân Việt Nam kư giao kèo làm việc cho đơn vị MAVC-SOG. Thực ra cơ quan An Ninh Quốc Pḥng chỉ lo cho người Hoa Kỳ, nên không đặt câu hỏi về các biệt kích quân Việt Nam vẫn c̣n bị giam giữ nơi miền bắc Việt Nam.
    Người tù binh Hoa Kỳ cuối cùng được trao trả vào ngày 1 tháng Tư năm 1973. Sau đó trung tá Trowbridge phải bớt nhân viên trong ban làm việc, nên bỏ qua luôn chuyện các biệt kích quân Việt Nam. Theo những báo cáo trước đây, các biệt kích quân đă chết, và nếu họ vẫn c̣n sống th́ chính quyền VNCH phải lo cho họ, chứ không phải chính quyền Hoa Kỳ.
    Trong số những công dân Hoa Kỳ (dân chính) được trao trả có Larry Stark và Bob Olsen. Hai người Hoa Kỳ này bị giam cạnh pḥng biệt kích quân Việt Nam: Lê Văn Ngung, Nông Văn Hinh và Mộc A Tài trong khu trại giam B, nhà tù Tranh Tŕ. Những điều hai người nói ra, phiá đại diện Hoa Kỳ không ai thèm để ư (Số phận của gần 400 tù biệt kích vẫn c̣n bị giam giữ).
    Trung úy Nguyễn Quốc Đạt thuộc Không Quân VNCH, được các tù biệt kích coi như anh hùng. Ông Đạt cũng bị giam cầm nơi miền bắc, và được nhiều tù binh Hoa Kỳ nhắc đến. Họ lên tiếng chính quyền Hoa Kỳ phải làm điều ǵ cho ông Đạt. Và qua sự can thiệp của người Hoa Kỳ, phi công Nguyễn Quốc Đạt được trao trả, cùng với phi công Phan Thanh Vân, người lái chiếc C-47 chở biệt kích MACV-SOG bị bắn rơi ở Ninh B́nh ngày 1 tháng Bẩy năm 1961.
    Không phải tất cả các biệt kích quân đều bị bắt ở ngoài bắc, chín trong số mười biệt kích quân Việt Nam trong toán Illinois bị bắt ở bên Lào cùng với trung sĩ TQLC Hoa Kỳ Frank Cius và trung sĩ Ronald Dexter, trưởng toán biệt kích đều được Bắc Việt trao trả bên bờ sông Thạch Hăn. Trong đó có Nguyễn Văn Chiến, người thông ngôn trong toán biệt kích. Riêng biệt kích quân thứ mười Hà Văn Sơn v́ thái độ ngoan cố nên không được trao trả.
    Nhân viên làm việc dưới quyền đại tá William LeGro thuộc cơ quan DAO phỏng vấn Nguyễn Văn Chiến để biết số phận toán biệt kích Illinois, cùng với trung sĩ Dexter (không có trong danh sách trao trả). Chiến cho biết, chiếc trực thăng Chinook chở toán biệt kích Illinois bị bắn rơi trên đất Lào và cả toán bị quân đội Bắc Việt bắt sống. Trên đường áp giải toán biệt kích ra Hà Nội, khi đi ngang qua Thanh Hóa, trung sĩ Dexter bị giết chết.
    Nhưng khi anh Chiến đ̣i tiền lương của anh ta kể từ ngày bị bắt, người phỏng vấn anh... hốt hoảng! Cơ quan DAO báo về văn pḥng cơ quan T́nh Báo Quốc Pḥng (DIA) ở Washington về tiền lương của các biệt kích quân... Người Hoa Kỳ bực tức.

    TUYỆT THỰC PHẢN ĐỐI

    Căm phẫn v́ bị bỏ rơi, các biệt kích quân tổ chức cuộc tuyệt thực phản đối, bắt đầu từ ngày 4 tháng Sáu năm 1973. Thiếu tá Toàn ra lệnh cho lính canh gác “Dẹp tan những mầm mống chống đối”. Câu chuyện sau đây được nhiều cựu biệt kích quân kể lại.
    Một toán lính bảo vệ, vơ trang tiểu liên AK-47, xông vào láng F3 đánh đập tù nhân. Họ dùng báng súng đánh và lùa tù nhân ra khỏi láng. Nhiều người bị lôi ra sân. Sau đó, họ cho chó Berger vào trong láng, cắn xé những người chưa ra kịp.
    Ra đến ngoài sân, các tù nhân được các cai tù đứng hàng dài cầm cùm sắt “đón chào”, vung tay đánh đập, cho đến khi người tù ḅ lết đến cuối hàng, rồi bị lôi vào cùm biệt giam. Mấy cai tù khác cũng xông vào đánh tiếp cho đến khi tù nhân bất tỉnh.
    Các tù nhân bị cùm chân trên bệ (làm giường) bằng xi măng. Dội nước lạnh cho tỉnh lại rồi bị đánh tiếp cho đến khi ngất xỉu lần nữa. Nguyễn Văn Tân, Vũ Viết Tịnh, Đặng Công Tŕnh, Nguyễn Huy Khoan, Mộc A Tài, Nguyễn Văn Trinh, Đặng Đ́nh Thúy, Trần Quốc Định, Nguyễn Văn tập, Nông Tập, Nông Văn Hinh, trông như những tấm giẻ rách dính đầy máu.
    Tiếp theo nhà tù Phố Lu báo động. Tất cả cai tù, lính canh, bảo vệ được huy động đến bao vây khu K1. Lúc đó, thiếu tá Toàn không có mặt, thượng úy Nguyễn Văn Tuấn phải đối diện với những khó khăn đang xẩy ra trong khu giam tù biệt kích. Lẽ dĩ nhiên, ông ta không sợ đám biệt kích, chỉ sợ bị mất việc. Ông ta nói lớn “Các anh sẽ phải đối diện với thực tế, chúng tôi hoàn toàn kiểm soát các anh. Các anh nằm trong bàn tay chúng tôi, chỉ cần bóp mạnh, các anh sẽ chết hết. Chúng tôi nhẹ tay các anh mới thở được. Ai nghĩ rằng làm chuyện này là điều tốt, cứ tiếp tục tuyệt thực, chúng tôi sẽ thanh toán tất cả”.
    Ba biệt kích quân can đảm bước ra. Lầu Chí Chấn, một người nhái trong toán Cancer bị bắt trong vịnh Bắc Việt năm 1966, bước lên trước mặt thượng úy Tuấn, phanh ngực áo nói lớn “Ông có giỏi cứ bắn đi! Bắn đi! Lũ cộng sản khát máu! Cứ bắn tôi đi!”
    Thượng úy Tuấn, không ngờ một người tù biệt kích phản ứng như thế. Ông ta quay lưng bỏ ra ngoài, để cai tù khoá cửa lại. Không dè gặp những trường hợp khó xử, thượng úy Tuấn quyết định rất tốt “Không làm ǵ cả, vẫn tốt hơn làm điều sai”.
    Thiếu tá Toàn, được tin vội quay trở về nhà tù Phố Lu. Ông ta dắt ban tham mưu đi thẳng đến láng F2. Nh́n đám tù biệt kích tiều tụy vài giây, thiếu tá Toàn nói nhỏ nhẹ “Các anh thật là dại, các anh làm chuyện dại dột. Tại sao các anh tuyệt thực? Các anh nh́n nhau mà xem, các anh rất ốm yếu. Các anh đang chết lần ṃn, ai là người thua thiệt? Chính các anh là những người phải chịu đựng. Các anh nên ăn uống để lấy lại sức khỏe, rồi một ngày nào đó, biết đâu, Đảng sẽ để cho các anh trở về với... gia đ́nh. Sẽ được trao trả (cho VNCH).
    Thiếu tá Toàn nói tiếp “Các anh thật là điên rồ. Tôi được nghe nói các anh muốn được trao trả theo bản hiệp định Paris. Chúng tôi đă cho các anh biết rơ... Nhưng ngoài khả năng, quyền hạn của tôi. C̣n chuyện các anh muốn chúng tôi thả anh Thụy (Thiếu úy QLVNCH Đặng Đ́nh Thụy, cố vấn toán Hector-2), tôi có thể giải quyết ngay... sẽ thả anh ta ra trong chiều nay. Trở lại bản hiệp định Paris, rơ ràng ngoài thẩm quyền của tôi. Tôi chỉ là người giữ ch́a khóa (nhà tù). Khi Nhà Nước ra lệnh làm điều này, điều nọ, chuyện đó phải xong. Khi Nhà Nước ra lệnh đàn áp, chúng tôi phải thẳng tay. Nhà Nước mong tôi làm tṛn nhiệm vu.”
    Đó cũng là lần đầu tiên ông ta dùng chữ “trao trả”... Nhưng đă quá muộn màng cho những người tù biệt kích. Thiếu tá Toàn kết thúc “Các anh muốn chúng tôi thả anh Thúy ra. Chúng tôi sẽ thả ra nội trong chiều hôm nay. Các anh đồng ư chứ? Phải ăn uống trở lại để giữ ǵn sức khoẻ”. Cuộc “đại chiến” kết thúc êm thắm. Đến tháng Bẩy, tất cả tù biệt kích trong hai láng F1, F2 được lệnh chuẩn bị di chuyển. Nhưng thật ra họ chỉ chuyển 21 người tù “sừng sỏ” đưa lên nhà tù Quyết Thăng.

    TRỞ LẠI NHÀ TÙ QUYẾT THẮNG

    Trong nhà tù Quyết Thắng, đám tù biệt kích mới được chuyển lên, bị bớt khẩu phần ăn, phải làm việc lao động nhiều giờ hơn phải phải viết bản kiểm thảo. Những người không chịu viết bản kiểm thảo: Lê Văn Ngung, Nguyễn Minh Châu, Đặng Đ́nh Thụy, Trần Ngọc B́nh... đều bị tống vào khu kỷ luật... cùm biệt giam.
    Mùa đông nơi miền bắc năm 1973 bắt đầu có “hiệu qủa” đối với những người tù biệt kích, với chế độ ăn uống không đủ no, thiếu dinh dưỡng. Một hôm cán bộ vào pḥng giam Lê văn Ngung và Nguyễn Văn Tập, họ nh́n thấy nhiều sợi tóc trên nền nhà, nghi ngờ tù nhân dấu lưỡi lam, dao cạo râu.
    “Dao cạo râu đưa ra đây ngay. Ai cho phép các anh cắt tóc?”. Lê Văn Ngung trả lời “Tôi bị rụng tóc”. Trả lời xong anh Ngung đứng dậy, đưa tay lên vuốt mái tóc, một ít sợi tóc rơi xuống đất. Tháng Mười Hai năm đó, chín người tù biệt kích được cho ra khỏi khu biệt giam: Lê Văn Ngung, Hoàng Văn Văn, Hoàng Tân, Nguyễn Văn Tập, Hoàng Ngọc Chính, Nông Văn Hinh, Lê Ngọc Kiên, Trần Quốc Định và Lầu Chí Chấn. Các bạn biệt kích khác nh́n thấy người nào cũng chỉ c̣n bộ xương, nặng không đến 40 kí lô.
    “Anh là ai?” Lê Ngọc Kiên, một biệt kích trong toán Hector-2 lên tiếng hỏi.
    “Anh biết tôi à?” Lê Văn Ngung trả lời. Cả hai người bị giam chung năm 1969 trong trại tù Phong Quang và trong nhà tù Phố Lu năm 1973, và kết thân với nhau. Lúc đó họ không c̣n nhận ra người bạn đồng cảnh ngộ.
    Thời gian lặng lẽ trôi qua. Đến tuần lễ đầu trong tháng 5 năm 1975, cán bộ vào pḥng giam sung sướng cho đám tù biệt kích biết “Chúng tôi đă giải phóng Saigon. Việt Nam Cộng Ḥa đă xụp đổ. Ngụy quyền đă đầu hàng.”
    Tất cả biệt kích quân đều sửng sốt. Họ tê tái không biết hỏi ǵ thêm. Rồi được cho xem h́nh ảnh đoàn chiến xa Bắc Việt di chuyển trên xa lộ Biên Ḥa tiến về Saigon. Trước đó họ vẫn cho rằng cán bộ chỉ khoác lác, tuyên truyền cho họ mất niềm tin... Nhưng bây giờ, những tấm ảnh chụp thành phố Saigon đầy lính Bắc Việt trên đường... và khắp mọi nơi.
    Đến cuối năm 1977, các tù biệt kích được đưa lên trại tù Tuyên Quang gần biên giới Hoa Việt. Đến năm 1978, lợi dụng t́nh h́nh căng thẳng giữa Trung Cộng và Việt Nam, Ṿng A Cầu và Lê Trung Tín, cùng với một số tù h́nh sự khác, trốn thoát qua biên giới Trung Hoa. Họ là hai người tù biệt kích đầu tiên và cũng là duy nhất trốn thoát khỏi gông cùm nhà tù.
    Dallas, Texas
    Vđh

    ( Sinh Tồn chuyển )
    Last edited by Nhân Dân Tự Vệ; 21-10-2012 at 12:41 PM.

  5. #5
    Member
    Join Date
    29-05-2012
    Posts
    396
    Trtong số những người tù Biệt kích có một người nhỏ con va gan dạ tên "chuột nhắt", đă về được và định cư tại Mỹ . Câu chuyện rất hay, nhandantuve có biết th́ cho đăng lại .

  6. #6
    Member
    Join Date
    25-01-2011
    Posts
    4,929

    Biệt Kích “Chuột Nhắt” Nguyễn Văn Tính

    Quote Originally Posted by nguyenthiep View Post
    Trtong số những người tù Biệt kích có một người nhỏ con va gan dạ tên "chuột nhắt", đă về được và định cư tại Mỹ . Câu chuyện rất hay, nhandantuve có biết th́ cho đăng lại .

    Khởi đầu, tôi gia nhập Đoàn Kỵ Binh của Pháp năm 1953. Nam dinh Sau trận Điện Biên Phủ, Đoàn Kỵ Binh di tản về Hà Nội để sửa soạn xuống tầu đi Tunisie, ai không muốn đi th́ có quyền ở lại quê nhà. Tôi xin về quê và theo giáo xứ di cư vào Nam năm 1954, sống ở Thừa Thiên.
    Khi được tin “Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung” đang cần tuyển những thanh niên có tinh thần chống cộng và có kinh nghiệm chiến trường, tôi được Cha B́nh, địa phận Thừa Thiên giới thiệu với Ông Ngô Đ́nh Cẩn. Tôi được nhận vào đoàn ngay và được huấn luyện trở thành một “Điệp Viên”, với nhiệm vụ là t́m và bắt những cán bộ Việt Cộng được gài lại hoặc núp bóng dân tỵ nạn vào Nam để phá hoại.
    Làm việc với Đoàn công tác một thời gian, tới năm 1959, tôi được thuyên chuyển qua “Sở Khai Thác Địa H́nh” , “Sở Bắc” do Đạt Tá Trần Văn Hổ làm chỉ huy trưởng, sau này đổi tên thành “Nha Kỹ Thuật” của Pḥng 7 Tổng Tham Mưu Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa.
    Kỹ thuật mà “Nha” này đảm trách, không phải là kỹ thuật về sửa chữa máy móc dành cho xe nhà binh, tầu chiến, mà là kỹ thuật sử dụng máy truyền tin, chất nổ . v. v. dùng trong điệp vụ phá hoại miền Bắc. Quê tôi ở miền Bắc, khi di cư vào Nam, tôi và tất cả mọi người dân di cư đều mơ đến một ngày cùng đại quân quay về chiếm lại miền Bắc thống nhất đất nước. Đây là dịp may cho tôi để thực hiện giấc mơ này. Mọi việc đang tiến triển khả quan th́ xẩy ra đảo chánh, mọi điệp vụ đều bị ngưng lại.
    Đến năm 1964, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ chủ trương đánh ra Bắc để chuyển chiến trường về miền Bắc, để buộc bọn Việt Cộng phải đem quân trở về bảo vệ đất đai của chúng, do đó, các toán biệt kích lại được gởi ra Bắc để làm đầu cầu tiến quân.
    Từ Huế, tôi được gởi đi học khóa huấn luyện biệt kích ở Long Thành. Chương tŕnh kéo dài trong 12 tháng, bao gồm 5 môn học chính:
    Phá hoại - Tâm lư chiến - Vũ khí - Nhẩy dù và Truyền tin.
    Đại Úy Nguyễn Hữu Luyện là một trong những Huấn Luyện Viên của chúng tôi. Mỗi khi học môn học nào, chúng tôi được gởi đi tới trường chuyên môn để học chung với các khóa sinh khác. Ví dụ như: Học truyền tin, chúng tôi được gởi đi Trung tâm huấn luyện Truyền Tin ở Vũng Tầu. Học nhẩy dù, chúng tôi học ở trại Hoàng Hoa Thám, chung với các chiến binh của Sư đoàn Nhẩy Dù. .v . . v.
    Măn khóa học, tôi được đưa ra phi trường để bay tới Nha Trang. Tại đây, tôi được xe đưa về ở nhà của Thượng sĩ Phú, ANQĐ của Sư Đoàn 2 và được gặp tất cả 8 biệt kích quân của toán “Lôi Hổ - Thundering Tigers”. Đi chơi ḷng ṿng ở Nha Trang một ngày, tới chiều hôm sau, lúc 3pm, toán chúng tôi được bay qua Thái Lan, rồi đổi máy bay C47 để bay ra Bắc. Đúng 12am, toán Lôi Hổ đă có mặt trên ṿm trời biên giới của ba tỉnh Mộc Châu, Lai Châu, Sơn La. Toán chúng tôi gồm có:
    Trưởng Toán: Đinh Công Châu,
    Phó T Toán: Bùi Văn Giao,
    Cố Vấn: Nguyễn Văn Tính,
    Toán viên: Hoàng Văn Giám,
    Toán Viên: Hoàng Văn Thế,
    Toán Viên: Đinh Viết Lam,
    Truyền Tin: Nguyễn Văn Thái,
    Toán Viên: Dương Văn Liễu,
    Nhiệm vụ: Thám sát, phá hoại, lập đầu cầu.
    Trang bị: Tỉểu liên hăm thanh 32 viên, súng colt 9mm hăm thanh 14 viên và 4 tấn dạn dược thuốc nổ, thức ăn khô.
    Địa điểm tập trung: Căn cứ Biệt Kích ở Lai Châu.
    Khi dù đang lơ lửng trên không, tôi đă nghe có tiếng chó sủa. Rơi xuống đất, chưa kịp cuốn dù là tôi đă nh́n thấy những ánh đèn pin và chó sủa thật gần: Chúng tôi có thể đă bị lộ và đang bị bao vây? V́ nhẩy ở rừng, tất nhiên là tôi bị vướng vào cây, phải dùng lưỡi lê cắt dây dù để nhầy xuống. Để cho nhẹ nhàng khi nhẩy dù, chúng tôi chỉ mang theo nguời một cấp số đạn cho khầu tiểu liên và súng colt, do đó, chuyện cần thiết khi xuống đất là phải t́m cho ra người truyền tin và đồ đạc được thẩy ra cùng với anh ta. Nhưng bọn Việt Cộng đă tới gần quá, tôi chỉ c̣n kịp cắt dây cột súng ra để chiến đấu mà thôi. Địch quân rất đông, đông lắm, lại thêm chó săn nữa! Trưởng toán Đinh Công Châu và phó toán Bùi Văn Giao cố gắng cản hậu cho anh em rút lui, đă bị trúng đạn. Anh Giao bị tử thương, Thái bị thương, chúng tôi vừa bắn vừa t́m đường tẩu thoát, mỗi người một nơi.
    Tôi vượt thoát vào rừng sâu, ngày ngủ đêm di chuyển. Địa điểm tập trung coi như đă bị lộ, tôi chỉ c̣n cách nấn ná t́m anh em rồi rút về phía biên giới Lào để t́m đuởng liên lạc với căn cứ xin trực thăng bốc về. Qua ngày thứ 10, tôi vẫn không t́m được ai trong số 7 người c̣n lại. địch vẫn bám sát, tôi bắn hết đạn, đành phá hủy hết tài liệu và dụng cụ c̣n lại. Bọn Việt Cộng đă t́m ra tôi, nhưng chúng không dám xung phong bắt sống tôi, mà chỉ bao vây chung quanh ra lệnh cho tôi đầu hàng. Tôi nhào vào bọn chúng bắn những viên đạn cuối cùng rồi lẩn vào rửng sâu, nhưng bọn chúng đă ào lên chĩa súng vào tôi sẵn sàng nhả đạn.
    Đời Biệt Kích của tôi chấm dứt từ đây!
    Chúng bịt mắt, trói tay tôi dẫn đi về căn cứ của chúng. Tôi bị thương, lại nhịn ăn suốt 10 ngày trời, nên đi bộ rất chậm. Đi đuợc khoảng một tiếng đồng hồ, tôi vờ ngă gục, không đi được nữa. Mục đích của tôi là nằm nghỉ lấy sức và t́m dịp chúng sơ hở là chạy trốn. Mặc dù tôi đă nằm một đống dưới đất, nhưng bọn chúng vẫn cẩn thận, đứa nào cũng lên đạn lắc cắc chĩa vào tôi. Có mấy đứa dùng báng súng đánh vào đầu vào ḿnh tôi thê thảm. Tôi vùng lên dựt một báng súng đánh lại. Tên chỉ huy ra lệnh cho tôi:
    “Thằng biệt kích ngụy, mày không được chống lại bộ đội nhân dân. Bỏ súng xuống, không th́ “ông” bắt mày chết tươi đấy!”
    Tôi biết nó dọa thôi, chứ không dám bắn, v́ phải đem tôi về mà thẩm vấn. Tôi nắm chặt cái báng súng, nói lớn:
    “Tôi đă bị bắt làm tù binh rồi, đă bị trói tôi rồi, các anh không đuợc đánh tôi.”
    Tên chỉ huy ra lệnh cho bọn lính không đánh tôi nữa, nói cả bọn ngồi chờ đó để hắn xin lệnh thượng cấp. Một lúc sau, có xe tới đưa tôi và cả bọn đi. Đi đâu th́ đuơng nhiên là tôi không biết rồi, nhưng chung quanh toàn là rừng núi, có về thị xă th́ ít nhất cũng phải mất nửa ngày.
    Tôi tỉnh đậy khi bọn chúng khiêng tôi thẩy đùng xuống sàn đất đau điếng. Cả người tôi tê rần, nhức buốt. Tôi đă thuộc ḷng những lời khai cần thiết khi bị bắt, nên không ngại, chỉ suy nghĩ về những anh em khác, họ có bị bắt như tôi không? Khi tản hàng, chạy mỗi người một ngă, tôi nghe tiếng súng tứ phía, nên không biết t́nh h́nh ra sao, chỉ mong rằng anh Thái truyền tin c̣n đủ thời gian để gởi gấp tín hiệu “Đă bị lộ” cho trạm liên lạc ở Lào, để toán này gởi tin về cho trung ương ngay, kịp thời thay đổi cách thức và nơi xâm nhập cho toán đi sau.
    Tôi không biết số phận của những toán đă xâm nhập trước tôi ra sao? Tôi chỉ đuợc nghe rằng các toán trước đă xâm nhập thành công và vẫn gởi tin về đều đều. Như vậy là chỉ có toán của tôi là xui xẻo bị lộ? Tôi nhất quyết không khai bất cứ điều ǵ có hại tới đại cuộc. Người lính biệt kích trước khi ra trận đă chấp nhận không trở về, vậy th́ hăy chấp nhận thương đau đi. Sống ngẩng mặt trông lên, chết khôn thẹn với luơng tâm. Mai này, nếu c̣n đường trở về, sẽ lại ngẩng cao mặt với đời. Hơn nữa, tôi đă được cho biết kỹ càng: Chúng tôi là điệp viên, không số quân, không căn cước, không đơn vị, không cấp trên. Nếu lỡ bị bắt, sẽ không đơn vị nào nh́n nhận chúng tôi, không chính phủ nào bảo bọc chúng tôi. Công việc của chúng tôi làm là do tự nguyện, v́ ḷng yêu nước, v́ thù hận bọn cộng sản dă man cam chịu làm tay sai cho bọn cộng sản quốc tế mà nhuộm đỏ cả miền Bắc, nay c̣n gởi quân xâm chiếm miền Nam với mục đích truyền bá chính sách cộng sản.
    Từ khi bị bắt, bọn chúng không cho tôi một giọt nước, một hột cơm: Không thành vấn đề! Nhưng tôi chưa nghĩ xong mọi chuyện th́ bọn VC đă bắt đầu lôi tôi ra thẩm vấn. Bọn chúng buộc hai tay tôi giang ra xa, bắt tôi ở thế đứng nh́n thẳng vào bọn thẩm vấn. Tên thẩm vấn đầu tiên hỏi tôi:
    -Thằng biệt kích ngụy, tên mày là gỉ? Quê quán ở đâu? Đơn vị nào? Có bao nhiêu người cùng xâm nhập về Bắc?
    - Tôi tên Nguyễn Văn Tính, đă cùng anh em nhẩy ra Bắc để giải phóng quê hương của tôi ra khỏi ngục tù cộng sản. Cấp trên ra lệnh, chỉ biết tuân hành, không biết ǵ hơn.
    Mặc cho bọn chúng nổi cơn lôi đ́nh, nạt nộ, dọa nạt, tôi nhất định chỉ khai có bấy nhiêu.
    “Thằng biệt kích ngụy ngoan cố. Mày không cần khai, tao cũng biết mày do bọn Mỹ ngụy đầy ra Bắc để chết. Làm sao mà chúng mày có thể lấy được tin tức ǵ của chúng tao! Đánh cho chết nó đi!
    Mặc cho chúng đánh, mặc cho chúng dùng bất cứ cực h́nh nào, tôi cũng chỉ có câu trả lời:
    -Là lính biệt kích, chỉ biết tuân lệnh cấp trên, không biết ǵ hết, v́ không ai cho biết ǵ cả!
    Đêm tới, bọn chúng lại thẩy tôi lên xe bít bùng chạy nữa. Đây là giây phút thoải mái nhất từ ngày bị bắt: Tôi được tự do ngủ bù, không bị phiền phức ǵ nữa, ít nhất cho tới khi tới địa điểm mới.
    Tới nơi, tôi vẫn không biết là chỗ nào, tất cả đều tối om như mực, và chúng vẫn bịt mắt tôi. Chỉ biết là nơi đây sàn đá rất kiên cố. Đưa tôi vào pḥng giam rồi, chúng mới cởi khăn bịt mắt của tôi ra, dùng cùm chữ U xỏ hai chân tôi vào, khóa lại kỹ càng rồi bỏ đi ra. Sáng hôm sau, khi ánh sáng tràn vào, tôi mới nh́n rơ nơi bị giam: Đó là một căn pḥng biệt lập kín mít, chỉ có một của ra vào và một cửa sổ nhỏ có song sắt ở trên cao. Sau khi được cho ăn sáng, bọn cai tù đưa tôi lên tra vấn. Sau khi kê khai tên tuổi, bọn chúng hỏi tôi:
    “Mật mă của anh là ǵ?”
    “Tôi không nhớ, nên đă ghi vào một tờ giấy để trong áo khoác. Các ông đă lột áo của tôi rồi, hăy kiếm ở trong đó sẽ có. C̣n bây giờ th́ tôi quên rồi, không thể nhớ ra được.”
    Thực sự th́ có ai lại đi ghi mật mă của ḿnh vào giấy bao giờ! Tôi nói là nói vậy thôi, chứ c̣n tôi thuộc nằm ḷng nó từ lúc học truyền tin lận. Biệt kích mỗi người được gọi bằng một ám số riêng. Khi báo cáo về trạm liên lạc, phải nói con số này trước để kiểm soát. Nếu đúng th́ mới có thể liên lạc tiếp được. Nếu không đúng, điện đài sẽ cúp máy ngay.
    Chắc chắn là bọn chúng đă kiểm soát rất kỹ cái áo ngoài của tôi rồi và không thấy ǵ cả. Nhưng khi tôi trả lời như vậy, tên trưởng toán thẩm vấn cũng không nói ǵ cả.
    Tiếp theo chúng hỏi tôi những câu thông thường:
    -Quê quán của anh ở đâu? Trưởng toán của anh là ai? Toán của anh có mấy người?
    Quê quán th́ chắc chắn là tôi trả lời không đúng sự thật rồi, c̣n mấy câu hỏi sau, tôi cứ theo sự thật mà trả lời, v́ chúng có thể đă biết rồi.
    Đến khi chúng hỏi tôi:
    -Tại sao lại theo miền Nam để về chống phá cách mạng?
    Th́ tôi trả lời ngay:
    -Miền Bắc của các anh sống trong chế độ Cộng Sản, ḱm kẹp đàn áp con người mất tự do, bóc lột người dân tới tận cùng cực khổ nghèo đói. Chúng tôi có nhiệm vụ trở về miền Bắc để giải phóng người dân Việt khỏi ách Cộng Sản.
    Bọn chúng đập bàn đập ghế tranh căi với tôi tới sùi bọt mép, nhưng cũng không làm sao dụ dỗ tôi theo chúng được. Chúng phải biết là những biệt kích đều là những người có tinh thần chống Cộng cao độ, gia đ́nh đă từng bị bọn Cộng Sản giết hại. Trước khi nhẩy ra Bắc, chúng tôi đă được học một khóa tâm lư chiến, biết rơ căn bản của chủ nghĩa Cộng Sản, th́ làm sao chúng có thể tuyên truyền tẩy năo chúng tôi được!
    Cứ một tuần hai lần, chúng gọi tôi lên hỏi cung, chứ không ghi chép hoặc bắt kê khai gịng họ, gia phả ǵ cả. Chắc chúng cũng đă biết, biệt kích đă được học cách trả lời rồi, nên chẳng mất công đâu mà hỏi dài gịng. Bọn chúng cho tôi ăn mỗi ngày ba bữa, tiêu tiểu vào trong một cái bô, đến chiều được mở cùm ra đi đổ bô khoảng mười phút, mỗi tuần được tắm một lần.
    Khi đă phục hồi sức khỏe, tôi đă thử rút chân ra khỏi cùm. Cái cùm h́nh chữ U có then ngang, tôi nhỏ con, nên cái cùm không ăn nhằm ǵ với tôi cả. Tôi thử rút chân ra, hơi nhúc nhích cái chân một chút là tôi đă có thể rút cả hai chân ra khỏi cùm một cách dễ dàng. Tôi thử bỏ chân trở lại cái cùm, cũng không có ǵ khó khăn, nên yên chí rút chân ra đi ṿng ṿng trong nhà giam. Khi đă gần đến giờ bọn bọn cai tù tới, tôi lại đút hai chân vào cùm ngồi rất ngoan ngoăn. Có lúc tôi thử nhẩy lên cao nh́n ra ngoài, chỉ thấy nhiều dẫy nhà khác cũng bằng đá ở chung quanh. Có lần tôi cũng đă t́m cách rờ thử trần nhà xem có thể dùng vật nhọn đục thủng trần nhà để thoát ra ngoài hay không? Trần nhà đă có nhiều vết đục từ trước, tôi thử đục tiếp theo th́ thấy cát từ trên trần nhà rới xuống nhiều lắm. Tôi vội vàng nhẩy xuống không dám đục thêm, t́m cách hót đám cát này vứt ra ngoài cửa sổ, v́ cát rơi xuống sẽ bị bọn cai ngục nh́n thấy, sẽ bị đ̣n thê thảm. Sau này, tôi mới biết trại tù này tên là Thanh Tŕ, gần Hà Nội. Trại này do Pháp xây từ lâu, dùng để nhốt những nhà Ái Quốc Việt Nam. Trần nhà tuy chỉ làm bằng xi măng nhưng ở phía trên đổ cát rất dầy (khoảng 1m), để tránh hỏa hoạn và cũng để tù nhân không có cách trốn thoát.
    Khoảng một năm sau, bọn chúng chuyển tôi đi trại Thanh Nghiệp ở Hà Đông, rồi qua trại Thanh Phong ở Lào Kay.
    Từ năm 69 tới 72 th́ tôi ở trại Vĩnh Phú. Ở đây, bọn chúng cho chúng tôi ở trong pḥng biệt giam, mỗi pḥng có từ 1 tới 7 người. Trại giam làm bằng cây, mái rơm. Mỗi pḥng cách nhau bắng một tấm phên, chúng tôi không c̣n bị cùm chân nữa, được cho làm công việc như đan, lát ở trong pḥng. Tôi lợi dụng nghề đan lát này cùng với thân h́nh nhỏ con để cắt một lỗ nhỏ ở tường ngăn mà chui qua pḥng kế bên nói chuyện với anh em ở các toán khác. Khi trở về, tôi để tấm phên đă cắt vào lỗ rồi dùng tài đan chúng lại với nhau, không ai có thể biết là chỗ này đă bị cắt và đan lại. Nhờ cách thức di chuyển này mà tôi mới gặp được những anh em biệt kích khác, từ đó, tôi mới biết toán của tôi, ai c̣n ai mất? Đinh Viết Lam đă tử trận ngay trận giao tranh đầu tiên, 6 người c̣n lại, kể cả tôi, đều bị bắt. Có hôm, vào buổi tối, tôi đă lần ṃ tới tận trại của bọn cai tù mà nghe lén chúng bàn bạc công tác với nhau rồi về báo lại cho anh em biết mà đề pḥng. Cũng v́ cái tài cắt tường ḅ đi khắp mọi nơi, anh em biệt kích mới đặt cho tôi cái tên: “Chuột Nhắt”
    Thời gian ở Vĩnh Phú cũng là thời gian tốt nhất cho anh em biệt kích chúng tôi chỉnh đốn lại đội ngũ đă có từ trước, đoàn kết với nhau, khích lệ nhau mà sống. Khẩu hiệu của chúng tôi là:
    “Biệt Kích vẫn làm nhiệm vụ của ḿnh”
    Chúng tôi được đưa về Bắc làm nhiệm vụ đầu cầu, mặc dù chúng tôi đă bị bắt, không làm được ǵ nữa, nhưng chúng tôi lợi dụng thời gian này để bảo tồn lực lượng, giữ ǵn sức khỏe, giữ vững lập trường chống cộng và chờ thời cơ. Khi nào đại quân miền Nam tiến về Bắc, chúng tôi sẽ bung ra làm nhiệm vụ hướng dẫn, tiêu diệt những hạ tầng cơ sở của bọn Cộng Sản phi nhân.
    Muốn đạt được những mục đích trên, việc đầu tiên chúng tôi quan tâm là, không để cho bọn CS chèn ép, đàn áp chúng tôi. Muốn như vậy, chúng tôi cố gắng không phạm những lỗi lầm mà bọn VC đă đặt ra, ghi trong “Quy Luật Của Trại Giam”. Nếu có ai trong chúng tôi lỡ phạm lỗi, chúng tôi yêu cầu được đưa họ lên gặp trưởng toán, trưởng trại của chúng tôi để họ bị phạt, chứ không để bọn cán bộ VC tự ư phạt theo ư muốn của chúng. Dĩ nhiên, h́nh phạt của chúng tôi phải gắt gao hơn h́nh phạt của bọn VC, để vửa lấy ḷng tin của bọn chúng, vừa giữ được kỷ luật của biệt kích.
    Mỗi khi bọn Việt Cộng muốn giao một nhiệm vụ ǵ đó cho từng cá nhân, mỗi người chúng tôi đều t́m cách báo lại cho trưởng toán để cho họ biết hoặc để xin ư kiến.
    Mỗi khi bọn VC muốn cả trại chúng tôi làm một công tác nào đặc biệt, tất cả anh em biệt kích sẽ họp lại với nhau cùng quyết định có nên làm hay không? Nếu không làm, chúng tôi hoặc là đề nghị thẳng với bọn chúng một phương pháp khác, hoặc là làm bộ khai bịnh để làm chậm lại kế hoạch của chúng. Tuy nhiên, khi đă quyết định đồng ư làm, chúng tôi làm việc cật lực, chu toàn nhiệm vụ trong thời gian sớm nhất.
    V́ tinh thần kỷ luật, v́ tinh thần trách nhiệm của chúng tôi mà bọn VC rất nể nang anh em biệt kích, không dám hạch sách đầy đọa chúng tôi. Đối với bọn VC, chúng tôi vẫn c̣n là một quân bài để bọn VC dùng để đổi chác khi cần đến. Hơn nữa, chúng vẫn sợ bóng sợ gió chúng tôi: Nếu đàn áp chúng tôi, một khi đại quân Miền Nam ra tới nơi, chíng chúng tôi sẽ là những người đầu tiên tiêu diệt bọn chúng. V́ thế, bọn VC để yên cho chúng tôi sống.
    Vào những năm 72 – 73, chúng tôi được chuyển về trại “Quyết Tiến” ở Hà Giang. Khi tin tức về ḥa đàm Ba Lê trở nên nóng hổi, bọn cai tù thỉnh thoảng tập trung chúng tôi lại, cho nghe thông tin về diễn tiến của ḥa đàm này. Tin đưa ra là anh em chúng tôi sẽ được trao trả đầu tiên khi ḥa đàm được kư kết, làm chúng tôi nôn nóng hết sức. Đă có lần, anh em chúng tôi được phát mỗi người một bộ quần áo nâu, tập họp đem theo hành lư để sửa soạn được đưa đi trao đổi. Nhưng cuối cùng, bọn chúng lại đưa chúng tôi về,với lư do là “Chiến tranh c̣n tiếp diễn, không thể trao đổi tù binh.”
    Mặc dù cuộc trao đổi tù binh không thành sự thật, nhưng trong tương lai có thể sẽ có những cuộc trao đổi khác, do đó, bọn VC đă thay đổi thái độ với chúng tôi. Chúng để yên cho chúng tôi tự coi sóc, tự chỉ huy lẫn nhau, miễn là chúng tôi không vi phạm nội quy của trại.
    Hy vọng của chúng tôi cứ như thế mà tăng cao lên, cho tới năm 1975, khi bọn chúng một lần nữa tập họp chúng tôi lại, cho nghe radio:
    Miền Nam đă đầu hàng!
    Chúng tôi không thể nào tin vào những ǵ vừa mới nghe qua đài phát thanh!
    Bao nhiêu cố gắng, bao nhiêu hy vọng đă tan thành mây khói. Nh́n bọn VC ôm nhau nhẩy múa ăn mừng chiến thắng mà ḷng chúng tôi tan nát.
    Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, lúc chúng tôi ra đi, đă thật là hùng mạnh, đầy đủ khả năng Bắc Tiến! Tại sao cả một quân lực như vậy mà lại thua trận, đầu hàng?
    Từ khi bị bắt, chúng tôi vẫn vững ḷng tin tưởng ở chiến thắng cuối cùng, nên đă cố sống hùng sống mạnh chờ thời cơ. Nay thời cơ đă tiêu tan, chúng tôi bám víu vào cái ǵ nữa để mà sống đây?
    Chúng tôi ôm nhau khóc sướt mướt. Tinh thần chúng tôi xuống đến mức thảm hại.
    Đă có người nghĩ đến tự tử. Tôi cũng nghĩ tói điều này. Nhưng cũng may, đa số anh em chúng tôi đều theo đạo công giáo, việc tự tử coi như là đă phạm giới luật của Thiên Chúa, nên anh em chúng tôi đă t́m sức sống trong tiếng kinh cầu nguyện. Cả một tuần lễ, chúng tôi không ra ngoài làm lao động, không hội họp, chỉ lặng thinh nh́n nhau. Bọn Việt Cộng bây giờ không c̣n sợ bị “Bắc Tiến” nữa, không sợ bị chúng tôi trả thù nữa, nhưng cũng không dám đụng chạm ǵ tới tụi tôi lúc này.
    Một thời gian sau, có tin những sĩ quan biệt kích của chúng tôi được đưa về trại “Cổng Trời” nơi chúng tôi đang ở. Tôi được biết có 3 sĩ quan cùng nhẩy ra Bắc với chúng tôi, đó là Đại Úy Nguyễn Hữu Luyện, Đại Úy Rạng và một Thiếu Úy mà tôi không nhớ tên. Cả ba sĩ quan này, tuy được đưa về cùng trại với chúng tôi, nhưng ở khu “Biệt giam”. Chúng tôi rất quư mến những vị sĩ quan này, v́ ngoài cương vị là cấp chỉ huy, họ c̣n là những nguời lớn tuổi hơn chúng tôi, nhất là Đại Úy Luyện, ông không những là một cấp chỉ huy, lại c̣n là huấn luyện viên của chúng tôi nữa, nên ai cũng biết ông và rất kính nể ông.
    Từ khi biết những sĩ quan này về cùng trại, hầu như tất cả anh em biệt kích chúng tôi đều t́m dịp đi ngang lán của ông, nghiêm trang đứng chào ông, dù là không biết ông có nh́n thấy chúng tôi hay không? Mỗi lần như vậy, ông đều t́m cách báo cho chúng tôi biết bằng cách ho lên đánh tiếng, đọc một câu thơ, hoặc ném một cục đá nhỏ về phía chúng tôi. Mặc dù luật biệt giam của bọn VC cấm chúng tôi không được lảng vảng quanh khu biệt giam và cấm người bị biệt giam liên lạc với người bên ngoài, chúng tôi vẫn t́m cách tiếp tế cho ông và ông cũng luôn luôn t́m cách liên lạc với chúng tôi. Biết tinh thần anh em chúng tôi đang xuống rất thấp, ông đă t́m đủ mọi cách viết thư ra, cổ vơ tinh thần chúng tôi. Ông khuyên chúng tôi hăy ráng sống, chờ ngày về đoàn tụ với gia đ́nh.
    Năm 1978, khi chúng tôi đang ở Tuyên Quang, nghe tin bọn Việt Cộng và Trung Cộng sắp đánh nhau, đă có một số biệt kích gốc Trung Hoa Quốc Gia của Tưởng Giới Thạch t́m đường trốn về Trung Cộng. Những người này nhắn lại với anh em là sẽ dẫn đường cho quân Trung Cộng qua giải thoát tất cả biệt kích. Họ có trốn về được tới Trung Cộng hay không? Chúng tôi hoàn toàn không có tin tức ǵ cả, nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó, tất cả anh em chúng tôi đều được chuyển về trại “Lam Sơn” và “Lư Bá Sơ” ở Thanh Hóa. Lúc này cũng là lúc Trung Cộng đă tràn quân qua biên giới giao chiến với bọn Cộng Sản.
    Biết rằng chúng tôi đă không c̣n là mối nguy hiểm cho chúng nữa, bọn VC đă thả lỏng chúng tôi đôi chút. Bọn chúng đă không những không canh giữ chúng tôi nghiêm ngặt, mà lại c̣n cho chúng tôi ra ngoài trại làm việc nữa.
    Lần đầu tiên được ra ngoài làm việc, chúng tôi cảm thấy thật là thoải mái. Đi giữa những khu rừng dầy đặc, chúng tôi cảm giác thật là quen thuộc, dù là chưa bao giờ được tới nơi này. Chúng tôi được huấn luyện để sống ở trong rừng mà!
    Được tiếp xúc với dân, chúng tôi mới thấy cuộc sống của họ thật là khổ cực, nghèo nàn: Suốt ngày lam lũ, làm không đủ ăn, áo không đủ mặc, nhà cửa xiêu vẹo đổ nát. Anh em chúng tôi đă t́m cách giúp đỡ cho dân, bằng cách tự bỏ quên nhưng món đồ nghề như dao, búa, cưa, đục . . . ở gần nhà của họ, để cho họ có đồ mà xài. Cũng có khi chúng tôi kéo nhau vài ba đứa tự chặt cây, sửa lại cột kèo, lợp lại mái nhà cho họ. Những người dân này lúc ban đầu không biết chúng tôi là ai? Họ trả ơn chúng tôi bằng những củ khoai lang hoặc một ít gạo. Nhưng chúng tôi không lấy, v́ biết rằng họ rất là nghèo.
    Một thời gian sau nữa, bọn VC đă đem những người “Tù H́nh Sự” sát nhập vào với chúng tôi (Tù Chính Trị). Đám tù h́nh sự này, đương nhiên toàn là những thứ “Khó xài” đối với bọn VC, nhưng riêng đối với chúng tôi, chúng tôi đối xử với họ một cách công bằng, tôn trọng lẫn nhau. Bọn họ tuy thuộc loại “Ba đá”, nhưng đă “Nghe Danh” chúng tôi, v́ mỗi khi có xung đột xẩy ra, chúng tôi bênh nhau kỹ càng, dợt bọn chúng te tua ngay lập tức. Và nếu họ bị bọn VC đánh đập đối xử bất công, chúng tôi bênh vực họ ngay lập tức. Do đó, họ rất e dè, nể phục chúng tôi.
    Khi được giao nhiệm vụ nấu và chia phần ăn cho cả trại, chúng tôi đă tự chế ra cái “Cân Tiểu Ly” bằng cách dùng một đ̣n ngang buộc cục đá ở đằng đầu và ở phần giữa có một cái giỏ để chén cơm vào đó rồi treo lên xà ngang. Mỗi lần chia cơm, ai cũng phải có phần bằng nhau, không thêm bớt một hột: Trước mặt mọi người, chúng tôi xới đầy một chén cơm, móc vào giỏ và thay đổi vị trí cho tới khi chén cơm nằm ngang hàng, cân bằng với cục đá. Người trưởng toán đánh dấu và cột chặt vị trị cái giỏ lại. Mỗi người tự đem chén bát (cùng một thứ do trại phát) tới để được xới cơm vào bát, đem để lên cân. Người trưởng toán tùy theo vị trí của cái cân mà thêm bớt phần cơm cho đến khi cân được thăng bằng. Tới khi đó, người lănh cơm, nếu bằng ḷng, sẽ tự lấy cái chén của ḿnh ra để tới phiên người khác.
    Phát cơm theo kiểu này, rất lâu, nhưng lại rất công bằng, không có ai phàn nàn tranh căi. Chúng tôi nghe tin các trại khác cũng muốn bắt chước chúng tôi, nhưng họ không thành công, v́ người chia cơm và toán trật tự đă không được mọi người nể v́, xáo trộn vẫn xẩy ra mỗi khi chia cơm. Bọn VC lúc đầu, rất thán phục cách thức làm việc của chúng tôi, nhưng sau đó, bị cấp trên khiển trách là chúng tôi đă làm xấu mặt chế độ tới nỗi đem từng hột cơm ra mà đong, mà đếm, chúng đă không cho chúng tôi dùng cái “Cân Tiểu Ly” này nữa. Nhưng, nếu không làm như vậy, chắc chắn sẽ có khiếu nại, v́ người nào cũng nghĩ rằng chén cơm của ḿnh ít hơn chén cơm của người khác, do đó, chúng tôi vẫn cứ dùng, bọn VC không có cách nào khác hay hơn, nên đă không can thiệp tới việc chia cơm nữa.
    Đă có một lần, một người đàn bà già yếu, bị bệnh chết trong nhà mà không có thân nhân chôn cất. Bọn chính quyền sở tại không cho ḥm mà cũng không giúp phương tiện chôn cất, dân trong thôn không c̣n cách nào khác, cứ để cái xác x́nh thối ra đó, không ai dám đi ngang khu vực này nữa. Một biệt kích tên Nguyễn Văn Tâm (Tâm Sún) biết chuyện này, đă tự t́m ván đóng ḥm, bốc cái thây ma x́nh thối đó mà đem chôn tử tế. Dân làng biết ơn, đem cúng anh một con gà và một lít rượu (đó là những món hàng xa xỉ phẩm). Anh chỉ cuời chứ không nhận, Sau này, khi được biết anh Tâm và đám chúng tôi là những “Biệt Kích Miền Nam” dân chúng rất là quư mến chúng tôi. Từ những lúc đầu tiên, mỗi khi nói chuyện, họ đứng sau bức tường hoặc sau lũy tre để nói chuyện, họ đă trực tiếp giáp mặt chúng tôi, gọi chúng tôi với cái tên đặc biệt:
    “Anh Biệt Kích Miền Nam”
    Một cách rất quư mến, trân trọng.
    Và đó cũng là niềm khích lệ lớn cho chúng tôi. Ít ra, nếu không chịếm lại được miền Bắc, chúng tôi cũng chiếm được NHÂN TÂM của người miền Bắc.
    Lúc này là vào khoảng năm 1979, bọn VC đă không c̣n sợ chúng tôi vượt thoát, không sợ chúng tôi trả thù, lại được chúng tôi giúp đỡ làm những công việc mà bọn chúng không thể làm (xây nhà, đóng bàn ghế . . . ) nên bọn VC đă hầu như thả lỏng chúng tôi, cho chúng tôi tự do đi lại trong khu vực từ 3km tới 5km chung quanh trại giam. Trừ súng đạn là chúng tôi không được đụng tới thôi, chứ c̣n bất cứ dao kéo ḱm búa nào chúng tôi cũng có quyền sử dụng. Khi nghe tin những Sĩ Quan của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa bị chúng đem ra Bắc giam giữ gần trại chúng tôi, chúng tôi cũng đă t́m cách gặp mặt, nói chuyện với họ để biết thêm tin tức và để . . . ngắm lại người Miền Nam mà đă hơn mười năm qua, chúng tôi không được gặp gỡ. Mặc dù họ không phải là . . . Đại Quân Miền Nam ra giải phóng Miền Bắc như chúng tôi hằng mong ước, nhưng họ cũng là những người lính mà chúng tôi ngưỡng mộ. Ít ra, họ đă chiến đấu tới cùng, đă hoàn tất những công việc mà họ đă phải làm. Chúng tôi tự đặt ra nhiệm vụ phải bảo vệ những vị sĩ quan bị tù đầy này, dù họ không phải là cấp chỉ huy trực tiếp của chúng tôi, nhưng cũng là người lính của QLVNCH như chúng tôi. Khi nghe tin bọn VC quản giáo áp đặt những h́nh phạt quá khắt khe với những vị sĩ quan này, chúng tôi tuy không thể trực tiếp can thiệp, nhưng đă gián tiếp can thiệp, bằng cách từ chối không giúp đỡ bọn cai tù trong những công việc cần làm, nên bọn chúng cũng biết mà nới lỏng gọng ḱm đối với nhưng nguời anh em kia của chúng tôi.
    Nhất là, khi được biết thân nhân của các vị sĩ quan khi đă vượt cả ngàn dặm đường xá xa xôi tới thăm cha, chông, con bị giam ở nơi rừng núi trùng điệp này, đă bị hoặc là dân chúng, hoặc là bọn tù h́nh sự, hoặc là đám quản giáo đón đường cướp bóc hoặc bắt trả giá gánh gồng thật cao, chúng tôi đă yêu cầu bọn quản giáo cho phép giúp đỡ những người đi thăm này. Chúng tôi đă ra khẩu hiệu: Các thân nhân đi thăm tù cũng là thân nhân của Biệt Kích, ai đụng tới những người này, nhẹ th́ “Máu Đổi Máu” nặng th́ “Mạng Đổi Mạng” nên không ai c̣n dám . . . dỡn mặt với “Biệt Kích Miền Nam” nữa. Chúng tôi tự dựng lên những căn nhà lá cho các thân nhân này có chỗ nghỉ qua đêm an toàn, chúng tôi cũng tự đóng những chiếc “Xe Trâu” để chở đồ thăm nuôi cho các vị sĩ quan đang bị tù đầy.
    T́nh Huynh Đệ Chi Binh của chúng tôi là như thế đó.
    Những thân nhân của các vị này được chúng tôi giúp đỡ, cũng đă nghĩ ra cách đền đáp chúng tôi, họ đă tự hỏi chúng tôi:
    “Các anh có muốn viết thư về cho gia đ́nh hay không? Chúng tôi sẽ đem về tận nơi cho thân nhân các anh!”
    Câu nói đầy t́nh nghĩa này đă làm cho chúng tôi thật cảm động. Chúng tôi cũng muốn như vậy, nhưng không dám nói ra, v́ biết rằng đường xá xa xôi, không dễ ǵ tới nơi được. Hơn nữa, gia đ́nh chúng tôi không biết có c̣n ở chỗ cũ hay không? Đă hơn mười năm qua rồi, chúng tôi ra đi v́ nhiệm vụ bí mật, không hề nói ra nửa lời cho gia đ́nh vợ con biết. Nay thời thế đă đổi thay, vật đă đổi, sao đă dời, làm thế nào để biết người vợ của ḿnh có c̣n chờ đợi ḿnh hay không?
    Tôi đă suy nghĩ, thôi th́ cứ để gịng đời trôi qua đi. Khi nào được trở lại nhà hẵng hay.
    Nhưng một số anh em khác cũng đă viết thư về cho gia đ́nh. Đă có một số vợ con của Biệt Kích ra thăm chồng. Tôi cũng được tin của gia đ́nh, do một thân nhân của bạn bè tự đi t́m dùm, nhưng là một tin không vui: Gia đ́nh tôi đă dời đi đâu không ai t́m được. Tôi không buồn, v́ đă đoán biết được thế sự như vậy.
    Vào một ngày của năm 1982, tôi được bọn VC kêu lên báo tin được trả tự do. Tôi đứng lặng người một lúc rồi mới cám ơn để trở về thu xếp đồ đạc.
    Tôi trở về Tam Hiệp Biên Ḥa sống những ngày c̣n lại. Tôi đă gặp lại vợ con tôi và làm đủ mọi công việc để mưu sinh. Cha xứ và mọi người trong họ đạo hết ḷng giúp đỡ tôi trong cuộc sống hàng ngày, nhưng bọn công an luôn luôn làm khó dễ tôi.
    Cuối cùng, tôi chịu không nổi, phài t́m đường vượt biên. Tôi và đứa con trai út t́m đường bộ, đi từ Việt Nam qua Căm Bốt rồi tới Thái Lan. Khi phái đoàn Mỹ phỏng vấn tôi, hỏi tôi có muốn qua Mỹ hay không? Tôi đă trả lời:
    “Người Mỹ không tốt với chúng tôi, tôi không qua Mỹ đâu.
    Tôi chọn Úc, và đă sống một cuộc sống tự do, b́nh thản cho tới hôm nay, cho tới măn đời của tôi.
    NGƯỜI VIỆT CỦA TÔI, LÀ THẾ ĐẤY!
    Posted by Nha Kỹ Thuật at 9:34 AM

    (http://nhakythuatvnch.blogspot.com/2...-van-tinh.html)

  7. #7
    Member
    Join Date
    01-06-2011
    Location
    Travel around (English speaking countries only)
    Posts
    1,251
    Papa của Jackie cũng chọn New Zealand v́ ổng hổng thích người Mỹ.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Tàu Vinalines mất tích do rơi vào vùng quân sự?
    By NguờiPhu_KhuânVác in forum Tin Việt Nam
    Replies: 116
    Last Post: 03-01-2012, 11:55 AM
  2. Replies: 16
    Last Post: 03-09-2011, 04:18 AM
  3. Replies: 0
    Last Post: 05-01-2011, 10:53 PM
  4. Replies: 1
    Last Post: 20-12-2010, 07:15 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •