Page 12 of 24 FirstFirst ... 2891011121314151622 ... LastLast
Results 111 to 120 of 237

Thread: THÁNG TƯ ĐEN UẤT HẬN

  1. #111
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    NGƯỜI VỢ LÍNH THỜI BINH LỬA

    Người vợ lính ở tiền đồn cáng đáng cùng một lúc hai công việc, mà công việc nào cũng biểu hiện h́nh ảnh và đức tính cao quí của người phụ nữ Việt Nam. Thứ nhất, đức tính đảm đang tận tụy của người vợ, người đàn bà Việt Nam quán xuyến chuyện gia đ́nh, trông nom dạy dỗ con cái và nấu nướng những bữa ăn.

    Thứ hai, khi quân giặc đă thấy dẫy đầy ngoài những ṿng rào kẽm gai, th́ những người nữ chiến sĩ chưa từng một ngày được huấn luyện ở quân trường ấy đă chiến đấu như bất cứ người lính chuyên nghiệp nào. Chị cũng biết dùng máy truyền tin gọi Pháo Binh, chị biết sử dụng thành thạo mọi loại súng trong đồn có, chị ném lựu đạn ác liệt và chính xác, tấm thân nhỏ bé của chị oằn nặng dưới những thùng đạn tiếp tế. Và chị cũng sẵn sàng nằm gói thân thiên thu trong chiếc poncho, để tên chị vĩnh viễn đi vào lịch sử. Chúng ta có nhiều người chị như vậy lắm. Ở ngay tại đồng Giồng Đ́nh này th́ ít nhất cũng có những chị Phạm Thị Thàng và Trần Thị Tâm.



    Đêm 2.10.1965, với âm mưu làm xáo trộn hệ thống tiếp viện của những đơn vị diện địa trong khu vực Tiền Giang để dễ dàng thanh toán mục tiêu chính nào đó, chỉ trong một đêm Việt cộng đă tổ chức tấn công 11 vị trí của quân ta với quân số thật lớn. Đồn Giồng Đ́nh thuộc tỉnh G̣ Công cũng bị áp lực rất nặng của quân địch khi hứng chịu cuộc cường kích của 300 lính cộng.

    Đây là một lực lượng chính qui Việt cộng với hỏa lực rất mạnh, chúng quyết tâm hủy diệt đồn Giồng Đ́nh nhỏ bé, mà chỉ có vỏn vẹn một Trung Đội Nghĩa Quân 24 tay súng trấn giữ. Là những con ác quỷ hung tợn và thâm độc, lực lượng cộng quân đă bố trí ở hướng có nhiều nhà dân chúng, vừa làm bia đỡ đạn cho chúng, vừa ngoác miệng tuyên truyền gây căm thù nếu quân ta bắn trả. Người dân, nhất là những ông bà lăo già, đàn bà và trẻ con luôn luôn là những cái bia sống đỡ đạn cho bọn giặc hèn nhát gọi là những người “giải phóng”. Với quân số ấy, vũ khí hùng hậu ấy mà chúng cũng ngán ngại 24 chiến sĩ Nghĩa Quân Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đến nỗi phải cậy nhờ đến máu thịt của đồng bào để có cơ may thủ thắng, th́ c̣n từ ngữ nào, h́nh dung từ tồi tệ nhất nào để diễn tả bộ mặt cùng hung cực ác rất đốn mạt của cộng sản nữa không.

    Đúng 2 giờ đêm, quân cộng dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Thượng Úy Sáu Bích, đă mở cuộc tấn công từ hai mặt đánh vào Giồng Đ́nh, với sự tin tưởng điên rồ, rằng chúng sẽ thanh toán cái tiền đồn nhỏ xíu này trong một thời gian ngắn. Chiến thắng dường như là chắc chắn, v́ với quân số mười lần hơn, mười đè một, dẫu chúng có thí chín tên th́ cũng có thể hạ gục được một chiến sĩ Nghĩa Quân Giồng Đ́nh.

    Trên lư thuyết, th́ giả thiết đó dường như đúng. Nhưng trên trận địa, người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa luôn luôn thể hiện những chuyện phi thường, mà rất hằng hiện hữu trên bất kỳ chiến trường nào, quả thật cộng quân đă chọn lầm mục tiêu. Sau ba đợt tấn công hung bạo, tưởng gạch đá cũng phải nát thành tro, đă chiếm được 2 trong số 3 lô cốt trong đồn, cộng quân vẫn phải rút trở ra. Cuộc tấn công lần thứ tư được hối hả tổ chức và thực hiện, với quyết tâm san bằng Giồng Đ́nh. Nhưng liệu 24 chiến sĩ Nghĩa Quân có cho phép điều đó không. Câu trả lời là không, không chỉ đến từ ư chí hừng hực tử thủ của các anh, mà c̣n là từ đôi bàn tay yếu mềm của những người vợ lính đang sống cùng với chồng con của các chị trong đồn. Phải, cuộc chiến thắng cuối cùng của Nghĩa Quân đồn Giồng Đ́nh sẽ không thể thực hiện được, nếu không có sự góp sức chiến đấu của những người chị này. Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh. Không phải chỉ những người chị dũng cảm ấy không thôi, mà cả trẻ con cũng đánh.

    Đồn Giồng Đ́nh nằm ở một vùng thôn ấp hẻo lánh trong tỉnh G̣ Công, do một Trung Đội Nghĩa Quân trấn giữ, với thành phần chỉ huy gồm có anh Nguyễn Văn Thi, Đồn Trưởng, anh Lê Văn Hùng, Đồn Phó và anh Lê Văn Mẫn, âm thoại viên. Trấn thủ một vị trí hung hiểm như vậy, không chỉ có 24 tay súng mà đă đủ, nên tất cả những người vợ lính trong đồn đều đă được chồng huấn luyện sử dụng thành thạo những loại máy móc truyền tin và vũ khí. Như vậy số tay súng đă được nhân lên gấp đôi.

    Trong nhiều trường hợp, đến những giây phút tử sinh tuyệt vọng nhất, những em bé cũng tham chiến, khi các em gan dạ ḅ dưới lưới đạn của giặc để đem tiếp tế đến cho cha và mẹ. Không ai buộc những người vợ lính, con lính cầm súng đánh địch. Nhưng chính những người vợ lính, con lính ấy làm sao có thể ẩn náu t́m cái sống trong khi chồng và cha của họ sắp ngă gục ngoài chiến hào.

    Khi chấm dứt đợt tấn công thứ ba, địch tạm rút để tái tổ chức tấn công, th́ t́nh trạng bên trong đồn Giồng Đ́nh đă khá là bi đát. Đă có đến 16 chiến sĩ Nghĩa Quân bị thương, chỉ c̣n 8 Nghĩa Quân c̣n chiến đấu được. Âm thoại viên Lê Văn Mẫn bị thương ở đầu trong lúc anh đang cố gắng gọi máy về Tiểu Khu.

    Anh Mẫn gục xuống buông chiếc ống liên hợp. Chị Trần Thị Tâm, vợ anh Mẫn vội đặt con bên cạnh anh và chộp lấy ống liên hợp. Liên lạc được tiếp nối, chị Tâm nghiễm nhiên trở thành một âm thoại viên, và là cứu tinh của đồn Giồng Đ́nh. Ở một góc đồn, anh Lê Văn Hùng và chị Phạm Thị Thàng, vợ anh, và hai đứa con nhỏ đang phải đối đầu với một lực lượng quá đông của địch.

    Nh́n ra ngoài hàng rào kẽm gai, giặc đă đă tràn vào đen ng̣m như những con quái vật hung hăn. Anh Hùng chỉ c̣n trong tay cây tiểu liên Thompson và 16 trái lựu đạn, chị Thàng có một khẩu Carbine. Thật tội nghiệp cho hai đứa nhỏ, sức ép của bộc phá và súng SKZ của Việt cộng bắn vào quá gần, các em không c̣n khóc được nữa mà đă nằm bất động dưới chân hai vợ chồng anh Hùng. Chị Thàng th́ thào:

    - Chúng đang phá lô cốt chánh, để em bắn yểm trợ anh ḅ về giữ. Lô cốt mất là đồn ḿnh mất, em nằm tại đây giữ mấy đứa nhỏ, nếu chúng tràn vào th́... th́... em ném lựu đạn ra, có thể cầm cự đến sáng được.

    Anh Hùng ngần ngừ, anh rưng rưng nh́n vợ con, rồi nh́n về phía lô cốt. Tiếng súng từ lô cốt cuối cùng đă yếu ớt lắm, có lẽ mấy Nghĩa Quân cố thủ ở đó đă kiệt quệ quá rồi. Số phận của anh Thi Đồn Trưởng thế nào. Anh Hùng lắc đầu không dám nghĩ đến chuyện xấu nhất đă xảy ra cho đồng đội. Nhưng nếu Việt cộng chiếm được lô cốt ấy, th́ coi như đánh dấu chấm hết cuộc kháng cự. Anh Hùng phải quyết định, dù quyết định đó quá đau xót, là bỏ lại vợ con, mà trong lúc quân giặc đă ḥ hét ngay sát bên rồi:

    - Anh chạy theo giao thông hào, em bắn yểm trợ cho anh.

    Anh Hùng nh́n chị Thàng và hai đứa nhỏ lần cuối cùng. Trong ḷng anh quặn lên một nỗi bi thương. Trời ơi, vợ con ḿnh. Hai đứa nhỏ chẳng biết c̣n sống hay đă chết. Anh phóng ḿnh xuống hào chạy băng băng về hướng lô cốt. Cây Carbine trên tay chị Thàng run lên, những tràng đạn rải vào những cái bóng đen đă quá gần. Anh Hùng đă ḅ vào được lô cốt, giữa những tiếng đạn nổ rền trời. May quá, anh Thi trưởng đồn vẫn nguyên vẹn. Súng SKZ của địch thụt ầm ầm, nhưng anh Hùng vẫn có thể nghe được từng tiếng lựu đạn nổ từ phía công sự của chị Thàng.

    Nước mắt anh rơi lả chả trên nền đất. Anh đă đếm được đến con số 15, mà tiếng súng của địch vẫn nỗ ḍn dă ngay sát tuyến pḥng thủ của chị Thàng. Anh biết giây phút định mệnh thảm thiết nhất cũng đă điểm. Chị Thàng sẽ làm ǵ với quả lựu đạn thứ 16. Anh Hùng đau đớn rên lên trong ḷng : “Chỉ c̣n một trái lựu đạn nữa thôi, làm sao em cầm cự được đến sáng”. Chính anh cũng không có được một giây để nghĩ tiếp cái ǵ sẽ xảy đến cho vợ con ḿnh, v́ dưới chân lô cốt anh tử thủ đă đông nghẹt quân giặc. Đủ mọi thứ loại súng nỗ chát chúa khắp đồn, anh Hùng không biết chắc là ḿnh đă nghe được tiếng nổ của trái lựu đạn thứ 16 chưa.

    Cuộc chiến đấu đă kéo dài được một tiếng đồng hồ, quân địch đă phá được lớp kẽm gai cuối cùng và sắp tràn ngập đồn Giồng Đ́nh. Lúc đó là 3 giờ sáng rạng ngày 2.10.1965. T́nh h́nh đă quá nguy ngập. Anh Nguyễn Văn Thi, Đồn Trưởng, quyết định thà hy sinh c̣n hơn là để đồn lọt vào tay địch. Anh giật lấy ống liên hợp từ tay chị Tâm và thét lớn:

    - Hăy bắn lên đầu chúng tôi ! Bắn vào giữa đồn... Hai lô cốt thứ nhứt và thứ hai đă thất thủ. Tụi tui ở lô cốt thứ ba. Hăy bắn lên trên đầu chúng tôi, Việt cộng đông lắm. Bắn đi... bắn....

    Sau tiếng gọi thống thiết của người Đồn Trưởng, Pháo Binh Tiểu Khu G̣ Công lập tức bắn vào đồn với loại đầu nổ cao. Loại đạn đặc biệt này nổ khi cách mặt đất chừng 4, 5 thước, rất hữu hiệu tiêu diệt biển người địch, quân ta núp trong lô cốt vẫn có hy vọng sống sót. Những cái bóng đen nhập nhoạng dưới ánh sáng hỏa châu văng tung tóe, tiếng kêu dẫy chết của chúng như tiếng rú của quỷ. Hàng tràng đạn nổ cao vẫn dội ùng oàng xuống đồn. Chiếc lô cốt cuối cùng vẫn đứng vững, anh Thi cùng anh Hùng từ trong những lổ châu mai bắn tỉa từng tên địch. Giữa tiếng súng nổ ḍn, dường như người ta nghe âm thanh ŕ ŕ của máy bay. Không Quân Việt Nam đă tới. Những chiếc A1 khu trục cơ đă xuất kích. Đến đây th́ Thượng Úy Sáu Bích, tên chỉ huy trận đánh đă có thể nhận thấy rằng, cuộc tấn công đồn Giồng Đ́nh đă đánh dấu chấm hết, với phần thắng nghiêng về phía Nghĩa Quân Việt Nam Cộng Ḥa. Lúc 4 giờ 30 sáng, chiến địa hoàn toàn im tiếng súng. Quân địch đă kéo những xác chết và những tên bị thương chạy trốn vào phía bóng tối.

    Khi ánh hừng đông của một ngày mới đă lên, hai Đại Đội Địa Phương Quân do chính Trung Tá Tiểu Khu Trưởng G̣ Công chỉ huy đă đến và tổ chức bung quân ra lục soát. Quân cộng đă để lại trận địa 23 xác chết, ở giữa đồn có 6 xác khác nằm bên cạnh lô cốt thứ ba, nơi mà anh Đồn Trưởng Thi, Đồn Phó Hùng và chị Tâm giữ máy truyền tin đă kháng cự mănh liệt, thà chết không hàng. Những tên Việt cộng này mang trên ḿnh rất nhiều lựu đạn và bộc phá, chắc là chúng quyết thí mạng để phá cho bằng được ổ kháng cự cuối cùng này.

    Anh Thi và anh Hùng đă bắn địch theo lối xâu chéo, nghĩa là bắn chéo góc với nhau tạo thành một xạ trường quét gọn tất cả những tên cộng nào nằm trong đó. Ngày hôm sau, một người thường dân bị Việt cộng bắt đi tải thương lén trốn về được đă cho biết số bị thương của chúng chở đầy sáu chiếc ghe tam bản. Một lính cộng may mắn bị thương tên Dương Văn Thiều, 18 tuổi, sống sót và bị bắt làm tù binh. Tại sao may mắn ? V́ nếu anh ta bị kéo đi theo vào bưng biền, nếu không bị chết v́ nhiễm trùng, bị những quân y sĩ Việt cộng cưa cắt bằng những loại cưa và đục của thợ mộc, th́ cũng bị cấp chỉ huy ra lệnh mang anh đi thủ tiêu. Đó là lư do giải thích tại sao sau ngày 30.4.1975, người dân Miền Nam hiếm thấy người thương phế binh cộng sản trên đường phố.

    Nhưng đối với anh Hùng, th́ tất cả những ǵ mà Viêt cộng đă trả giá cho cuộc tấn công không làm anh quan tâm. Ngay khi tiếng súng vừa chấm dứt., quân cộng đă rút đi, th́ anh đă như một người điên lao ḿnh ra chỗ chiến hào mà chị Thàng đă một ḿnh một súng trấn giữ ở đó, với một niềm hy vọng mỏng manh, rằng đừng bao giờ trái lựu đạn thứ 16 được rút chốt. Anh Hùng ḅ vào khúc hào mà anh đă nuốt nước mắt chạy đi. Chị Thàng cùng hai đứa con của anh nằm chết bên cạnh ba xác Việt cộng. Anh Hùng gục xuống như thân cây chuối bị một nhát dao bén chém ngọt làm đôi. Anh biết, nếu trái lựu đạn thứ 16 nổ th́ chị Thàng cũng đi vào cơi chết, v́ chị Thàng sẽ không bao giờ cho phép giặc bắt chị hoặc đạn của chúng bắn vào người chị. Chị Thàng đă chọn một cái chết thật dũng cảm và cao cả. Ôm hai đứa con vào ḷng, chị Thàng b́nh tĩnh chờ cho những tên Việt cộng nhào vào, chị rút chốt.

    Tiếng nổ kinh thiên cùng với xác thịt và máu của người nữ chiến sĩ đó đă được đánh đổi với ba mạng giặc. Anh Hùng ôm xác vợ con vào ḷng và gần như ngất xỉu. Nhưng khi nh́n ra ngoài, những xác giặc thù nằm ngỗn ngang khắp nơi, trong nỗi đau khổ tột cùng của ḿnh, anh Hùng thấy trong ḷng dậy lên một niềm tự hào đến nghẹn ngào. Sự hy sinh của chị Thàng đă cứu sống được tất cả những thương binh Nghĩa Quân cùng vợ con các anh, nhưng trên hết cứu sống chính sinh mạng của người chồng mà chị yêu mến. Những viên đạn Carbine và 15 trái lựu đạn của chị đă đóng góp vào sự tồn tại kỳ diệu của đồn Giồng Đ́nh. Một người lính chuyên nghiệp và thiện chiến nhất cũng chỉ làm được đến ngần ấy. Nếu cái lô cốt thứ ba không đứng vững, th́ chắc chắn tất cả sinh mạng mấy mươi người Nghĩa Quân và vợ con của đồng Giồng Đ́nh đều sẽ chết hết.


    Anh Hùng ẳm chị Thàng ra ngoài, để trông thấy những người c̣n sống, những người vợ lính khác đă gục đầu khóc tiếc thương chị Thàng. Những nấm mộ đất được đắp vội với ba tấm bia tang tóc. Một của chị Phạm Thị Thàng, và hai kia của cháu Lê Văn Dũng và Lê Tấn Sỹ. Ôi, những người vợ của lính trong thời lửa binh. Chị Phạm Thị Thàng, chị Trần Thị Tâm, và nhiều người chị khác trên khắp nẽo chiến trường, chị Thạch Thị Định, chị Bùi Thị Xiếu, chị Am Reng. Người lính của chúng ta, những công dân xếp hạng chót nhất trong bậc thang xă hội, nhưng là những người hứng chịu oan nghiệt trước nhất, là bức tường chắn cho sự an toàn của hậu phương phồn thịnh và hạnh phúc. Trong đời của các anh không có được một thứ ưu tiên vật chất nào cả, ngoài cái ưu tiên phải hy sinh và chết. Có những người lính từ Miền Tây ra tận miền hỏa tuyến hay trên vùng cao nguyên sương mù Miền Trung, nhiều năm liền không có lấy được một ngày phép về thăm gia đ́nh. Nếu anh may mắn, thật đau xót, quân thù bắn anh bị thương, th́ anh mới có cái diễm phúc được nắm trong tay tờ giấy phép. C̣n nếu sự gọi là may mắn đó đi xa hơn một bước, anh chết, th́ anh được phép dài hạn trở về và vĩnh viễn được an nghỉ ở nơi đă sinh ra anh. Đầu năm 1972, trong một trận đánh của Sư Đoàn 3 Bộ Binh tại khu vực Cồn Tiên nằm sát phía Nam khu phi quân sự bên này bờ sông Bến Hải, một tiểu đoàn sau nhiều ngày cố gắng đă không thể chiếm được một cao điểm. Vị Tiểu Đoàn Trưởng gọi bốn người lính gốc Miền Tây lên hứa sẽ cấp mỗi anh mười ngày phép nếu các anh chiếm được ngọn đồi ấy. Bốn người tráng sĩ Kinh Kha đă nai nịt tề chỉnh, mang thật nhiều lựu đạn ḅ lên, mỗi người cầm một cây gậy ngắn ḍ đường. Đêm tối như mực. Hễ chọt trúng cái lổ nào là thảy lựu đạn vô cái lổ đó, v́ ở đó chính là cái miệng hầm chốt của địch. Đến sáng, bốn người dũng tướng vô danh đó đă reo ḥ trương Cờ Vàng Việt Nam trên đỉnh cao điểm. Ôi, những ngày phép đă trở thành một ân huệ chứ không phải là một quyền lợi đương nhiên của những người lính trận.

    Người vợ lính cùng chia sẻ với chồng những nỗi đắng cay thiệt tḥi đó, bằng tất cả sự câm nín nhẫn nhục và vui ḷng với những ǵ ḿnh có. Một góc hầm tối tăm, một chiếc ghế bố cũ, vài cái nồi, chảo nhem nhuốc, những cái chén sành và những đôi đũa tre, cùng tiếng cười của lũ trẻ thơ cũng đủ làm nên thành niềm hạnh phúc vĩ đại của những người vợ lính. Chị Thàng đă chết đi, anh linh của chị cùng hai cháu bé đă thăng thiên lên cơi vĩnh hằng, nhưng những người c̣n sống cùng thời với chị, cho măi đến tận bây giờ và ngàn đời sau, dân tộc Việt Nam sẽ không bao giờ quên tên chị. V́ tên chị đă được trân trọng ghi chép vào những trang bi tráng nhất của lịch sử dân tộc Việt Nam chống cộng sản quốc tế và Hà Nội, một lũ hung đồ diệt chủng, diệt dân tộc gớm ghiếc nhất của thế kỷ thứ 20 và của lịch sử h́nh thành nhân con người.

    Trích : thegioinguoiviet
    Last edited by Tigon; 16-04-2011 at 10:24 PM.

  2. #112
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    Thiên Hùng Ca QL/VNCH


  3. #113
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    Thương Tiếc !


  4. #114
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    Truyện Người Thiếu Sinh Quân Vũ Tiến Quang

    (Trích trong bộ Lịch Sử Thiếu Sinh Quân Việt Nam)



    Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu


    Vũ Tiến Quang sinh ngày 10 tháng 9 năm 1956 tại Kiên Hưng, tỉnh Chương Thiện. Thân phụ là hạ sĩ địa phương quân Vũ Tiến Đức. Ngày 20 tháng 3 năm 1961, trong một cuộc hành quân an ninh của quận, Hạ Sĩ Đức bị trúng đạn tử thương khi tuổi mới 25. Ông để lại bà vợ trẻ với hai con. Con trai lớn, Vũ Tiến Quang 5 tuổi. Con gái tên Vũ thị Quỳnh Chi mới tṛn một năm. V́ có học, lại là quả phụ tử sĩ, bà Đức được thu dụng làm việc tại Chương Thiện, với nhiệm vụ khiêm tốn là thư kư ṭa hành chánh. Nhờ đồng lương thư kư, thêm vào tiền tử tuất cô nhi, quả phụ, nên đời sống của bà với hai con không đến nỗi thiếu thốn.

    Quang học tại trường tiểu học trong tỉnh. Tuy rất thông minh, nhưng Quang chỉ thích đá banh, thể thao hơn là học. Thành ra Quang là một học sinh trung b́nh trong lớp. Cuối năm 1967, Quang đỗ tiểu học. Nhân đọc báo Chiến Sĩ Cộng Hoà có đăng bài: "Ngôi sao sa trường: Thượng-sĩ-sữa Trần Minh, Thiên Thần U Minh Hạ", bài báo thuật lại: Minh xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Sau khi ra trường, Minh về phục vụ tại tiểu đoàn Ngạc Thần (tức tiểu đoàn 2 trung đoàn 31, sư đoàn 21 Bộ Binh) mà tiểu đoàn đang đồn trú tại Chương Thiện. Quang nảy ra ư đi t́m người hùng bằng xương bằng thịt. Chú bé lóc cóc 12 tuổi, được Trần Minh ôm hôn, dẫn đi ăn phở, bánh cuốn, rồi thuật cho nghe về cuộc sống vui vẻ tại trường Thiếu Sinh Quân. Quang suưt xoa, ước mơ được vào học trường này. Qua cuộc giao tiếp ban đầu, Minh là một mẫu người anh hùng, trong ước mơ của Quang. Quang nghĩ: "Ḿnh phải như anh Minh".

    Chiều hôm đó Quang thuật cho mẹ nghe cuộc gặp gỡ Trần Minh, rồi xin mẹ nộp đơn cho ḿnh nhập học trường Thiếu Sinh Quân. Bà mẹ Quang không mấy vui vẻ, v́ Quang là con một, mà nhập học Thiếu Sinh Quân, rồi sau này trở thành anh hùng như Trần Minh th́…nguy lắm. Bà không đồng ư. Hôm sau bà gặp riêng Trần Minh, khóc thảm thiết xin Minh nói dối Quang rằng, muốn nhập học trường Thiếu Sinh Quân th́ cha phải thuộc chủ lực quân, c̣n cha Quang là địa phương quân th́ không được. Minh từ chối:


    - Em không muốn nói dối cháu. Cháu là Quốc Gia Nghĩa Tử th́ ưu tiên nhập học. Em nghĩ chị nên cho cháu vào trường Thiếu Sinh Quân, th́ tương lai của cháu sẽ tốt đẹp hơn ở với gia đ́nh, trong khuôn khổ nhỏ hẹp.


    Chiều hôm ấy Quang t́m đến Minh để nghe nói về đời sống trong trường Thiếu Sinh Quân. Đă không giúp bà Đức th́ chớ, Minh c̣n đi cùng Quang tới nhà bà, hướng dẫn bà thủ tục xin cho Quang nhập trường. Thế rồi bà Đức đành phải chiều con. Bà đến pḥng 3, tiểu khu Chương Thiện làm thủ tục cho con. Bà gặp may. Trong pḥng 3 Tiểu Khu, có Trung Sĩ Nhất Cao Năng Hải, cũng là cựu Thiếu Sinh Quân. Hải lo làm tất cả mọi thủ tục giúp bà. Sợ bà đổi ư, th́ ḿnh sẽ mất thằng em dễ thương. Hải lên gặp Thiếu-tá Lê Minh Đảo, Tiểu Khu trưởng tŕnh bầy trường hợp của Quang. Thiếu Tá Đảo soạn một văn thư, đính kèm đơn của bà Đức, xin bộ Tổng Tham Mưu dành ưu tiên cho Quang.

    ( C̣n tiếp...)

  5. #115
    Member
    Join Date
    10-08-2010
    Location
    Góc Trời Tự Do
    Posts
    968

    Quốc Hận Kính Điếu

    <hr style="color: rgb(209, 209, 225); background-color: rgb(209, 209, 225);" size="1">
    Di ảnh từ trái sang phải và từ trên xuống dưới :
    - Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư Lệnh Quân Đoàn 4 (1927-1975)
    - Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn 4 (19??-1975)
    - Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn 2 (1928-1975)
    - Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh (1933-1975)
    - Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh (1925-1975)
    - Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn (1940-1975)
    - Trung Tá Cảnh Sát Nguyễn Văn Long
    - Thi hài Đại Tá Đặng Sĩ Vinh

    (Theo tài liệu trích từ : http://ongvove.wordpress.co m/2009/05/01/tướng-lanh-vnch-30041075/ và internet)

    Quốc Hận Kính Điếu

    Quốc Hận về đây kính điếu cùng
    Bao v́ tướng lănh thác kiên trung
    Nam, Hưng, Phú, Vỹ... gương ǵn sáng
    Hai, Cẩn, Long, Vinh... nợ trả hùng
    Đuổi ác giày quê nguyền chẳng mảng
    Ngăn thù khuấy nước thệ không dung
    Sa cơ tự sát nào quy phục
    Khí tiết ngh́n lưu ánh bập bùng
    Vntvnd
    (16/04/2011)




    __________________
    "Giữa sỏi đá vút vươn niềm hy vọng
    Trong tro tàn dào dạt nhựa hồi sinh
    Hận nội thù trên máu ruột Tiên Rồng
    Căm giặc cộng (BÁN) non sông Hồng Lạc"
    (YTKCPQ)

    "Cộng sản c̣n thống trị trên quê hương - Ta c̣n phải đấu tranh"
    Blog - MGP - VNCH - Viet.no




  6. #116
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Tháng 8 năm 1968, Quang được giấy gọi nhập học trường Thiếu Sinh Quân, mà không phải thi. Bà Đức thân dẫn con đi Vũng Tàu tŕnh diện. Ngày 2 tháng 9 năm 1969, Quang trở thành một Thiếu Sinh Quân Việt Nam.






    Quả thực trường Thiếu Sinh Quân là thiên đường của Quang. Quang có nhiều bạn cùng lứa tuổi, dư thừa chân khí, chạy nhảy vui đùa suốt ngày. Quang thích nhất những giờ huấn luyện tinh thần, những giờ học quân sự. C̣n học văn hóa th́ Quang lười, học sao đủ trả nợ thầy, không bị phạt là tốt rồi. Quang thích đá banh, và học Anh văn. Trong lớp, môn Anh văn, Quang luôn đứng đầu. Chỉ mới học hết đệ lục, mà Quang đă có thể đọc sách báo bằng tiếng Anh, nói truyện lưu loát với cố vấn Mỹ.


    Giáo-sư Việt văn của Quang là thầy Phạm Văn Viết, người mà Quang mượn bóng dáng để thay thế người cha. Có lần thầy Viết giảng đến câu:


    "Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
    Lưu thủ đan tâm chiếu hăn thanh"

    (Người ta sinh ra, ai mà không chết.
    Cần phải lưu chút ḷng son vào thanh sử).


    Quang thích hai câu này lắm, luôn miệng ngâm nga, rồi lại viết vào cuốn sổ tay.


    Trong giờ học sử, cũng như giờ huấn luyện tinh thần, Quang được giảng chi tiết về các anh hùng: Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản, thánh tổ của Thiếu Sinh Quân, giết tươi Toa Đô trong trận Hàm Tử. Quang cực kỳ sùng kính Bảo Nghĩa Vương Trần B́nh Trọng, từ chối công danh, chịu chết cho toàn chính khí. Quang cũng khâm phục Nguyễn Biểu, khi đối diện với quân thù, không sợ hăi, lại c̣n tỏ ra khinh thường chúng. Ba nhân vật này ảnh hưởng vào Quang rất sâu, rất đậm.




    Suốt các niên học từ 1969-1974, mỗi kỳ hè, được phép 2 tháng rưỡi về thăm nhà, cậu bé Thiếu Sinh Quân Vũ Tiến Quang t́m đến các đàn anh trấn đóng tại Chương Thiện để tŕnh diện. Quang được các cựu Thiếu Sinh Quân dẫn đi chơi, cho ăn quà, kể truyện chiến trường cho nghe. Một số ông uống thuốc liều, cho Quang theo ra trận. Quang chiến đấu như một con sư tử. Không ngờ mấy ông anh cưng cậu em út quá, mà gây ra một truyện động trời, đến nỗi bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam, bộ Tư-lệnh MACV cũng phải rởn da gà! Sau trở thành huyền thoại. Câu chuyện như thế này:


    Hè 1972, mà quân sử Việt Nam gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa, giữa lúc chiến trường toàn quốc sôi động. Bấy giờ Quang đă đỗ chứng chỉ 1 Bộ Binh. Được phép về thăm nhà, được các đàn anh cho ăn, và giảng những kinh nghiệm chiến trường, kinh nghiệm đời. Quang xin các anh cho theo ra trận. Mấy ông cựu Thiếu Sinh Quân, trăm ông như một, ông nào gan cũng to, mật cũng lớn, lại coi trời bằng vung. Yêu cậu em ngoan ngoăn, các ông chiều…cho Quang ra trận. Cuộc hành quân nào mấy ông cũng dẫn Quang theo.


    Trong môt cuộc hành quân cấp sư đoàn, đánh vào vùng Hộ Pḥng, thuộc Cà Mau. Đơn vị mà Quang theo là trung đội trinh sát của trung đoàn 31. Trung đội trưởng là một thiếu úy cựu Thiếu Sinh Quân. Hôm ấy, thông dịch viên cho cố vấn bị bệnh, Quang lại giỏi tiếng Anh, nên thiếu úy trung đội trưởng biệt phái Quang làm thông dịch viên cho cố vấn là thiếu úy Hummer. Trực thăng vừa đổ quân xuống th́ hiệu thính viên của Hummer trúng đạn chết ngay. Lập tức Quang thay thế anh ta. Nghĩa là mọi liên lạc vô tuyến, Hummer ra lệnh cho Quang, rồi Quang nói lại trong máy.


    Trung đội tiến vào trong làng th́ lọt trận điạ phục kích của trung đoàn chủ lực miền, tên trung đoàn U Minh. Trung đội bị một tiểu đoàn địch bao vây. Vừa giao tranh được mười phút th́ Hummer bị thương. Là người can đảm, Hummer bảo Quang đừng báo cáo về Trung-tâm hành quân. Trận chiến kéo dài sang giờ thứ hai th́ Hummer lại bị trúng đạn nữa, anh tử trận, thành ra không có ai liên lạc chỉ huy trực thăng vơ trang yểm trợ. Kệ, Quang thay Hummer chỉ huy trực thăng vơ trang. V́ được học địa h́nh, đọc bản đồ rất giỏi, Quang cứ tiếp tục ra lệnh cho trực thăng vơ trang nă vào pḥng tuyến địch, coi như Hummer c̣n sống. Bấy giờ quân hai bên gần như lẫn vào nhau, chỉ c̣n khoảng cách 20-30 thước.


    Thông thường, tại các quân trường Hoa-kỳ cũng như Việt Nam, dạy rằng khi gọi pháo binh, không quân yểm trợ, th́ chỉ xin bắn vào trận địa địch với khoảng cách quân ḿnh 70 đến 100 thước. Nhưng thời điểm 1965-1975, các cựu Thiếu Sinh Quân trong khu 42 chiến thuật khi họp nhau để ăn uống, siết chặt t́nh thân hữu, đă đưa ra phương pháp táo bạo là xin bắn vào pḥng tuyến địch, dù cách ḿnh 20 thước. Quang đă được học phương pháp đó. Quang chỉ huy trực thăng vơ trang nă vào trận địch, nhiều rocket (hoả tiễn nhỏ), đạn 155 ly nổ sát quân ḿnh, làm những binh sĩ non gan kinh hoảng. Nhờ vậy, mà trận địch bị tê liệt.


    Sau khi được giải vây, mọi người khám phá ra Quang lĩnh tới bẩy viên đạn mà không chết: trên mũ sắt có bốn vết đạn bắn hơm vào; hai viên khác trúng ngực, may nhờ có áo giáp, bằng không th́ Quang đă ô-hô ai-tai rồi. Viên thứ bẩy trúng…chim. Viên đạn chỉ xớt qua, bằng không th́ Quang thành thái giám.

    Trung-tá J.F. Corter, cố vấn trưởng trung đoàn được trung đội trưởng trinh sát báo cáo Hummer tử trận lúc 11 giờ 15. Ông ngạc nhiên hỏi:


    - Hummer chết lúc 11.15 giờ, mà tại sao tôi vẫn thấy y chỉ huy trực thăng, báo cáo cho đến lúc 17 giờ?


    V́ được học kỹ về tinh thần trách nhiệm, Quang nói rằng ḿnh là người lạm quyền, giả lệnh Hummer, thay Hummer chỉ huy. Quang xin lỗi Corter. Trung-tá J.F. Corter tưởng Quang là lính người lớn, đề nghị gắn huy chương Hoa Kỳ cho Quang. Bấy giờ mới ḷi đuôi chuột ra rằng các ông cựu Thiếu Sinh Quân đă uống thuốc liều, cho thằng em sữa ra trận.

    ( C̣n tiếp ..)

    ******************** ******

    Cùng quư Anh Chị Em ,

    tigon cần bài về những giờ phút cuối cùng của trường Thi êu Sinh quân
    Vũng Tàu .

    Chân thành cám ơn

    tigon
    Last edited by Tigon; 17-04-2011 at 01:08 AM.

  7. #117
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Đúng ra theo quân luật, mấy ông anh bị phạt nặng, Quang bị đưa ra ṭa v́ "Không có tư cách mà lại chỉ huy". Nhưng các vị sĩ quan trong sư đoàn 21, trung đoàn 31 cũng như cố vấn đều là những người của chiến trường, tính t́nh phóng khoáng, nên câu truyện bỏ qua. Quang không được gắn huy chương, mà mấy ông anh cũng không bị phạt. Hết hè, Quang trở về trường mang theo kỷ niệm chiến đấu cực đẹp trong đời cậu bé, mà cũng là kỷ niệm đẹp vô cùng của Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Câu truyện này trở thành huyền thoại. Huyền thoại này lan truyền mau lẹ khắp năm tỉnh của khu 42 chiến thuật : Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Chương Thiện. Quang trở thành người hùng lư tưởng của những thiếu nữ tuổi 15-17!


    Năm 1974, sau khi đỗ chứng chỉ 2 Bộ Binh, Quang ra trường, mang cấp bậc trung sĩ. Quang nộp đơn xin về sư đoàn 21 Bộ Binh. Quang được toại nguyện. Sư đoàn phân phối Quang về tiểu đoàn Ngạc Thần tức tiểu đoàn 2 trung đoàn 31, tiểu đoàn của Trần Minh sáu năm trước. Thế là giấc mơ 6 năm trước của Quang đă thành sự thực.


    Trung đoàn 31 Bộ Binh đóng tại Chương Thiện. Bấy giờ tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Chương Thiện là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, tham mưu trưởng tiểu khu là Thiếu Tá Nguyễn Văn Thời. Cả hai đều là cựu Thiếu Sinh Quân. Đại-tá Cẩn là cựu Thiếu Sinh Quân cao niên nhất vùng Chương Thiện bấy giờ (36 tuổi). Các cựu Thiếu Sinh Quân trong tiểu đoàn 2-31 dẫn Quang đến tŕnh diện anh hai Cẩn. Sau khi anh em gặp nhau, Cẩn đuổi tất các tùy tùng ra ngoài, để anh em tự do xả xú báp.


    Cẩn bẹo tai Quang một cái, Quang đau quá nhăn mặt. Cẩn hỏi:
    - Ê ! Quang, nghe nói mày lĩnh bẩy viên đạn mà không chết, th́ mày thuộc loại ḿnh đồng da sắt. Thế sao tao bẹo tai mày, mà mày cũng đau à?
    - Dạ, đạn Việt-cộng th́ không đau. Nhưng vuốt anh cấu th́ đau.
    - Móng tay tao, đâu phải vuốt?
    - Dạ, người ta nói anh là cọp U Minh Thượng…Th́ vuốt của anh phải sắc lắm.
    - Hồi đó suưt chết, thế bây giờ ra trận mày có sợ không?
    - Nếu khi ra trận anh sợ th́ em mới sợ. Cái ḷ Thiếu Sinh Quân có bao giờ nặn ra một thằng nhát gan đâu?
    - Thằng này được. Thế mày đă tŕnh diện anh Thời chưa?
    - Dạ anh Thời-thẹo không có nhà.


    Thiếu Tá Nguyễn Văn Thời, tham mưu trưởng Tiểu-khu, uy quyền biết mấy, thế mà một trung sĩ 18 tuổi dám gọi cái tên húy thời thơ ấu ra, th́ quả là một sự phạm thượng ghê gớm. Nhưng cả Thời lẫn Quang cùng là cựu Thiếu Sinh Quân th́ lại là một sự thân mật. Sau đó anh em kéo nhau đi ăn trưa. Lớn, bé cười nói ồn ào, như không biết tới những người xung quanh.


    Bấy giờ tin Trần Minh đă đền nợ nước tại giới tuyến miền Trung. Sự ra đi của người đàn anh, của người hùng lư tưởng làm Quang buồn không ít. Nhưng huyền thoại về Trần Minh lưu truyền, càng làm chính khí trong người Quang bừng bừng bốc lên.


    Tại sư đoàn 21 Bộ Binh, tất cả các hạ sĩ quan cũng như các Thiếu Sinh Quân mới ra trường, thường chỉ được theo hành quân như một khinh binh. Đợi một vài tháng đă quen với chiến trường, rồi mới được chỉ định làm tiểu đội trưởng. Nhưng vừa tŕnh diện, Quang được cử làm trung đội phó ngay, dù hầu hết các tiểu đội trưởng đều ở cấp trung sĩ, trung sĩ nhất, mà những người này đều vui ḷng. Họ tuân lệnh Quang răm rắp!


    Sáu tháng sau, đầu năm 1975 nhờ chiến công, Quang được thăng trung sĩ nhất, nhưng chưa đủ một năm thâm niên, nên chưa được gửi đi học sĩ quan. Quang trở thành nổi tiếng trong trận đánh ngày 1-2-1975, tại Thới Lai, Cờ Đỏ. Trong ngày hôm ấy, đơn vị của Quang chạm phải tiểu đoàn Tây Đô. Đây là một tiểu đoàn được thành lập từ năm 1945, do các sĩ quan Nhật Bản không muốn về nước, trốn lại Việt Nam…huấn luyện. Quang đă được Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn giảng về kinh nghiệm chiến trường:


    "Tây Đô là tiểu đoàn cơ động của tỉnh Cần Thơ. Tiểu đoàn có truyền thống lâu đời, rất thiện chiến. Khi tác chiến cấp đại đội, tiểu đoàn chúng không hơn các đơn vị khác làm bao. Nhưng tác chiến cấp trung đội, chúng rất giỏi. Chiến thuật thông thường, chúng dàn ba tiểu đội ra, chỉ tiểu đội ở giữa là nổ súng. Nếu thắng thế, th́ chúng bắn xối xả để uy hiếp tinh thần ta, rồi hai tiểu đội hai bên xung phong. Nếu yếu thế, th́ chúng lui. Ta không biết, đuổi theo, th́ sẽ dẫm phải ḿn, rồi bị hai tiểu đội hai bên đánh ép. V́ vậy khi đối trận với chúng, phải im lặng không bắn trả, để chúng tưởng ta tê liệt. Khi chúng bắt đầu xung phong, th́ dùng vũ khí cộng đồng nă vào giữa, cũng như hai bên. Thấy chúng chạy, th́ tấn công hai bên, chứ đừng đuổi theo. C̣n như chúng tiếp tục xung phong ta phải đợi chúng tới gần rồi mớí phản công".


    Bây giờ Quang có dịp áp dụng. Sau khi trực thăng vận đổ quân xuống. Cả đại đội của Quang bị địch pháo chụp lên đầu, đại liên bắn xối xả. Không một ai ngóc đầu dậy được. Nhờ pháo binh, trực thăng can thiệp, sau 15 phút đại đội đă tấn công vào trong làng. Vừa tới b́a làng, thiếu úy trung đội trưởng của Quang bị trúng đạn lật ngược. Quang thay thế chỉ huy trung đội. Trung đội dàn ra thành một tuyến dài đến gần trăm mét. Đến đây, th́ phi pháo không can thiệp được nữa, v́ quân hai bên chỉ cách nhau có 100 mét, gần như lẫn vào nhau. Nhớ lại lời giảng của Cẩn, Quang ra lệnh im lặng, chỉ nổ súng khi thấy địch. Ngược lại ngay trước mặt Quang, khoảng 200 thước là một cái hầm lớn, ngay trước hầm hai khẩu đại liên không ngừng nhả đạn. Quang ghi nhận vị trí hai khẩu đại liên với hai khẩu B40 ra lệnh:


    "Lát nữa khi chúng xung phong th́ dùng M79 diệt hai khẩu đại liên, B40, rồi hăy bắn trả".


    Sau gần 20 phút, th́nh ĺnh địch xả súng bắn xối xả như mưa, như gió, rồi tiếng hô xung phong phát ra. Chỉ chờ có thế, M79 của Quang khai pháo. Đại liên, B40 bị bắn tung lên, trong khi địch đang xung phong. Bấy giờ trung đội của Quang mới bắn trả. Chỉ một loạt đạn, toàn bộ pḥng tuyến địch bị cắt. Quang ra lệnh xung phong. Tới căn hầm, binh sĩ không dám lại gần, v́ bị lựu đạn từ trong ném ra. Quang ra lệnh cho hai khẩu đại liên bắn yểm trợ, rồi cho một khinh binh ḅ lại gần, tung vào trong một quả lựu đạn cay. Trong khi Quang hô:
    - Ra khỏi hầm, dơ tay lên đầu ! Bằng không lựu đạn sẽ ném vào trong.


    Cánh cửa hầm mở ra, mười tám người, nam có, nữ có, tay dơ lên đầu, ra khỏi hầm, lựu đạn cay làm nước mắt dàn dụa.


    Đến đây trận chiến chấm dứt.


    Th́ ra 18 người đó là đảng bộ và ủy ban nhân dân của huyện châu thành Cần Thơ. Trong đó có viên huyện ủy và viên chủ tịch ủy ban nhân dân huyện.

    ( C̣n tiếp ...)

  8. #118
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Sau trận này Quang được tuyên dương công trạng trước quân đội, được gắn huy chương Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu. Trong lễ chiến thắng giản dị, Quang được một nữ sinh trường Đoàn Thị Điểm quàng ṿng hoa. Nữ sinh đó tên Nguyễn Hoàng Châu, 15 tuổi, học lớp đệ ngũ. Cho hay, anh hùng với giai nhân xưa nay thường dễ cảm nhau. Quang, Châu yêu nhau từ đấy. Họ viết thư cho nhau hàng ngày. Khi có dịp theo quân qua Cần Thơ, thế nào Quang cũng gặp Châu. Đôi khi Châu táo bạo, xuống Chương Thiện thăm Quang. Mẹ Quang biết truyện, bà lên Cần Thơ gặp cha mẹ Châu. Hai gia đ́nh đính ước với nhau. Họ cùng đồng ư : Đợi năm tới, Quang xin học khóa sĩ quan đặc biệt, Châu 17 tuổi, th́ cho cưới nhau.


    Nhưng mối t́nh đó đă đi vào lịch sử…


    T́nh h́nh toàn quốc trong tháng 3, tháng 4 năm 1975 biến chuyển mau lẹ. Ban Mê Thuột bị mất, Quân Đoàn 2 rút lui khỏi Cao Nguyên, rồi Quân Đoàn 1 bỏ mất lănh thổ. Rồi các sĩ quan bộ Tổng Tham Mưu được Hoa Kỳ bốc đi. Ngày 29-4, trung đội của Quang chỉ c̣n mười người. Tiểu đoàn trưởng, đại đội trưởng bỏ ngũ về lo di tản gia đ́nh. Quang vào bộ chỉ huy tiểu khu Chương Thiện tŕnh diện Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Cẩn an ủi:


    - Em đem mấy người thuộc quyền vào đây ở với anh.


    Ngày 30 tháng 4 năm 1975, viên tướng mặt bánh đúc, đần độn Dương Văn Minh phát thanh bản văn ra lệnh cho quân đội Việt Nam Cộng-ḥa buông súng đầu hàng. Tất cả các đơn vị quân đội miền Nam tuân lệnh, cởi bỏ chiến bào, về sống với gia đ́nh. Một vài đơn vị lẻ lẻ c̣n cầm cự. Tiếng súng kháng cự của các đơn vị Dù tại Sài-g̣n ngừng lúc 9 giờ 7 phút.


    Đúng lúc đó tại Chương Thiện, tỉnh trưởng kiêm Tiểu Khu trưởng là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. Ông đang chỉ huy các đơn vị thuộc quyền chống lại cuộc tấn công của Cộng quân. Phần thắng đă nằm trong tay ông. Lệnh của Dương Văn Minh truyền đến. Các quận trưởng chán nản ra lệnh buông súng. Chỉ c̣n tỉnh lỵ là vẫn chiến đấu. Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn ra lệnh:


    "Dương Văn Minh lên làm Tổng-thống trái với hiến pháp. Ông ta không có tư cách của vị Tổng Tư Lệnh. Hăy tiếp tục chiến đấu".


    Nhưng đến 12 giờ trưa, các đơn vị dần dần bị tràn ngập, v́ quân ít, v́ hết đạn v́ mất tinh thần. Chỉ c̣n lại bộ chỉ huy tiểu khu. Trong bộ chỉ huy tiểu khu, có một đại đội địa phương quân cùng nhân viên bộ ham mưu. Đến 13 giờ, lựu đạn, đạn M79 hết. Tới 14 giờ 45, th́ đạn hết, làn sóng Cộng quân tràn vào trong bộ chỉ huy. Cuối cùng chỉ c̣n một ổ kháng cự từ trong một hầm chiến đấu, nơi đó có khẩu đại liên. Một quả lựu đạn cay ném vào trong hầm, tiếng súng im bặt. Quân Cộng Sản vào hầm lôi ra hai người. Một là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, tỉnh trưởng, kiêm tiểu khu trưởng và một trung sĩ mớí 19 tuổi. Trung sĩ đó tên là Vũ Tiến Quang.




    Bấy giờ đúng 15 giờ.


    Kẻ chiến thắng trói người chiến bại lại. Viên đại tá chính ủy của đơn vị có nhiệm vụ đánh tỉnh Chương Thiện hỏi:
    - Đ.M. Tại sao có lệnh đầu hàng, mà chúng mày không chịu tuân lệnh?


    Đại Tá Cẩn trả lời bằng nụ cười nhạt.


    Trung sĩ Quang chỉ Đại Tá Cẩn:


    - Thưa đại tá, tôi không biết có lệnh đầu hàng. Ví dù tôi biết, tôi cũng vẫn chiến đấu. V́ anh ấy là cấp chỉ huy trực tiếp của tôi. Anh ra lệnh chiến đấu, th́ tôi không thể căi lệnh.


    Cộng quân thu nhặt xác chết trong, ngoài bộ chỉ huy tiểu khu. Viên chính ủy chỉ những xác chết nói với Đại Tá Cẩn:
    - Chúng mày là hai tên ngụy ác ôn nhất. Đ.M. Chúng mày sẽ phải đền tội.


    Đại Tá Cẩn vẫn không trả lời, vẫn cười nhạt. Trung sĩ Quang ngang tàng:
    - Đại tá có lư tưởng của đại tá, tôi có lư tưởng của tôi. Đại tá theo Karl Marx, theo Lénine; c̣n tôi, tôi theo vua Hùng, vua Trưng. Tôi tuy bại trận, nhưng tôi vẫn giữ lư tưởng của tôi. Tôi không gọi đại tá là tên Việt Cộng. Tại sao đại tá lại mày tao, văng tục với chúng tôi như bọn ăn cắp gà, phường trộm trâu vậy? Phải chăng đó ngôn ngữ của đảng Cộng-sản?


    Viên đại tá rút súng kề vào đầu Quang:

    - Đ.M. Tao hỏi mày, bây giờ th́ mày có chính nghĩa hay tao có chính nghĩa?

    - Xưa nay súng đạn trong tay ai th́ người đó có lư. Nhưng đối với tôi, tôi học trường Thiếu Sinh Quân, súng đạn là đồ chơi của tôi từ bé. Tôi không sợ súng đâu. Đại tá đừng dọa tôi vô ích. Tôi vẫn thấy tôi có chính nghĩa, c̣n đại tá không có chính nghĩa. Tôi là con cháu Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản mà.

    - Đ.M. Mày có chịu nhận mày là tên ngụy không?

    - Tôi có chính nghĩa th́ tôi không thể là ngụy. C̣n Cộng quân dùng súng giết dân mới là ngụy, là giặc cướp. Tôi nhất quyết giữ chính khí của tôi như Bảo Nghĩa Vương Trần B́nh Trọng, như Nguyễn Biểu.


    Quang cười ngạo nghễ:

    - Nếu đại tá có chính nghĩa tại sao đại tá lại dùng lời nói thô tục vớí tôi?Ừ! Muốn mày tao th́ mày tao. Đ.M. tên Cộng Sản ác ôn! Nếu tao thắng, tao dí súng vào thái dương mày rồi hỏi: Đ.M.Mày có nhận mày là tên Việt Cộng không? Th́ mày trả lời sao?


    Một tiếng nổ nhỏ, Quang ngă bật ngửa, óc phọt ra khỏi đầu, nhưng trên môi người thiếu niên c̣n nở nụ cười. Tôi không có mặt tại chỗ, thành ra không mường tượng ư nghĩa nụ cười đó là nụ cười ǵ? Độc giả của tôi vốn thông minh, thử đoán xem nụ cựi đó mang ư nghĩa nào? Nụ cười hối hận ? Nụ cười ngạo nghễ? Nụ cười khinh bỉ? Hay nụ cười thỏa măn?

    C̣n tiếp...)


  9. #119
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674
    Nhân chứng quan trọng nhất, chứng kiến tận mắt cái chết của Vũ Tiến Quang thuật cho tác giả nghe là cô Vũ Thị Quỳnh Chi. Cô là em ruột của Quang, nhỏ hơn Quang 4 tuổi. Lúc anh cô bị giết, cô mới 15 tuổi (cô sinh năm 1960). Hiện (1999) cô là phu nhân của bác sĩ Jean Marc Bodoret, học tṛ của tôi, cư trú tại Marseille.


    Cái lúc mà Quang ngă xuống, th́ trong đám đông dân chúng ṭ ṃ đứng xem có tiếng một thiếu nữ thét lên như xé không gian, rồi cô rẽ những người xung quanh tiến ra ôm lấy xác Quang. Thiếu nữ đó là Nguyễn Hoàng Châu. Em gái Quang là Vũ thị Quỳnh Chi đă thuê được chiếc xe ba bánh. Cô cùng Nguyễn Hoàng Châu ôm xác Quang bỏ lên xe, rồi bọc xác Quang bằng cái Poncho, đem chôn.


    Chôn Quang xong, Châu từ biệt Quỳnh Chi, trở về Cần Thơ. Nhưng ba ngày sau, vào một buổi sáng sớm Quỳnh-Chi đem vàng hương, thực phẩm ra cúng mộ anh, th́ thấy Châu trong bộ y phục trắng của nữ sinh, chết gục bên cạnh. Mặt Châu vẫn tươi, vẫn đẹp như lúc sống. Đích thân Quỳnh Chi dùng mai, đào hố chôn Châu cạnh mộ Quang.


    Năm 1998, tôi có dịp công tác y khoa trong đoàn Liên Hiệp các viện bào chế Châu Âu (CEP= Coopérative Européenne Pharmaceutique), tôi đem J.M Bodoret cùng đi, Quỳnh Chi xin được tháp tùng chồng. Lợi dụng thời gian nghỉ công tác 4 ngày, từ Sài-g̣n, chúng tôi thuê xe đi Chương Thiện, t́m lại ngôi mộ Quang-Châu. Ngôi mộ thuộc loại vùi nông một nấm dăi dầu nắng mưa, cỏ hoa trải 22 năm, rất khó mà biết đó là ngôi mộ. Nhưng Quỳnh-Chi có trí nhớ tốt. Cô đă t́m ra. Cô khóc như mưa, như gió, khóc đến sưng mắt. Quỳnh-Chi xin phép cải táng, nhưng bị từ chối. Tuy nhiên, cuối cùng có tiền th́ mua tiên cũng được. Giấy phép có. Quỳnh-Chi cải táng mộ Quang-Châu đem về Kiên Hưng, chôn cạnh mộ của ông Vũ Tiến Đức. Quỳnh-Chi muốn bỏ hài cốt Quang, Châu vào hai cái tiểu khác nhau. Tôi là người lăng mạn. Tôi đề nghị xếp hai bộ xương chung với nhau vào trong một cái ḥm. Bodoret hoan hô ư kiến của sư phụ.


    Ngôi mộ của ông Đức, của Quang-Châu xây xong. Tôi cho khắc trên miếng đồng hàng chữ:


    "Nơi đây AET Vũ Tiến Quang, 19 tuổi,
    An giấc ngàn thu cùng
    Vợ là Nguyễn Hoàng Châu
    Nở nụ cười thỏa măn v́ thực hiện được giấc mộng"


    Giấc mộng của Quang mà tôi muốn nói, là: được nhập học trường Thiếu Sinh Quân, rồi trở thành anh hùng. Giấc mộng của Châu là được chết, được chôn chung với người yêu. Nhưng người ta có thể hiểu rằng: Quang thỏa măn nở nụ cười v́ mối t́nh trọn vẹn.


    Paris ngày 13 tháng 4 năm 1999.

    Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ.

    http://hoilatraloi.blogspot .com/2009...that-xung.html

    ( Mượn lại của anh Mê Linh bên thegioinguoiviet )

  10. #120
    Member Tigon's Avatar
    Join Date
    13-08-2010
    Posts
    22,674

    Câu chuyện cảm động do Phi Công Nguyễn Thế Ṭng kể


Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Replies: 0
    Last Post: 18-04-2012, 09:17 AM
  2. Replies: 5
    Last Post: 12-05-2011, 03:56 PM
  3. Replies: 4
    Last Post: 02-05-2011, 08:06 PM
  4. Replies: 1
    Last Post: 28-04-2011, 06:25 PM
  5. Replies: 6
    Last Post: 07-12-2010, 12:21 PM

Bookmarks

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •