Chép lại vài bài thơ (của người Việt) về tráng sĩ, trượng phu, anh hùng , hào kiệt, nam nhi , hảo hán...
[INDENT][INDENT][INDENT][B][COLOR="#FF0000"]Tráng sĩ [/COLOR]hành[/B]
[I]"Gió đ́u hiu sông Dịch lạnh lùng ghê,
[COLOR="#FF0000"]Tráng sĩ [/COLOR]một đi, không bao giờ về!"[/I]
Tay nâng chén rượu giă người cũ,
Miệng đọc câu ca chân bước đi.
Dao t́nh mài liếc với thanh khí.
Chí hùng tung bốc đầy sơn khê.
Nghe tiếng đờn trúc gơ réo rắt,
Mặc cho kể hết niềm phân ly.
Niềm phân ly!
Đă bước chân ra khôn hẹn kỳ,
Đời người bất quá vị tri kỷ,
Sống, chết, nên, chăng, ai sá chi!
Túi áo xênh xang ba tấc kiếm,
Bụi hồng rong ruổi đôi bánh xe.
Ngoảnh lại thành Yên đầy uất khí,
Thấu ḷng hoạ chỉ người tương tri
Người tương tri,
Lá gan bầu mật, cùng nhau thế:
Thề đem tấm thân tới hang hổ,
Giết con cọp dữ rừng man di,
Đời nếu chôn lấp hết công lư,
[COLOR="#FF0000"]Anh hùng hào kiệt[/COLOR] c̣n ra ǵ!
Phá núi Thái Sơn, lấp Đông Hải;
Ấy là phận sự đàn [COLOR="#FF0000"]nam nhi[/COLOR].
Đàn nam nhi,
Chuyển đất xoay giời thường có khi.
Khuyên ai chớ học bọn khăn yếm:
Xa nhau một bước lệ đầm đ́a.
Liếc mắt khắc trông vũ trụ đó.
Đâu không là cảnh ta say mê!
Chếch choáng hơi men bốc chính khí,
Ngâm câu khẳng khái ḿnh ta nghe...
"Gió đ́u hiu sông Dịch lạnh lùng ghê,
[COLOR="#FF0000"]Tráng sĩ[/COLOR] một đi không bao giờ trở về"
[B]Á Nam - Trần Tuấn Khải [/B]
Hai khổ đầu bài thơ tác giả viết vào năm 1926, tác giả viết tiếp và hoàn thành bài này vào năm 1933.[/INDENT][/INDENT][/INDENT]
Chép lại vài bài thơ (của người Việt) về tráng sĩ, trượng phu, anh hùng , hào kiệt, nam nhi , hảo hán...
[INDENT][I][COLOR="#808080"]Bài thơ nổi tiếng Hồ Trường do Nguyễn Bá Trác sáng tác
Thời gian trôi qua, có nhiều bản chép lại với những chi tiết khác nhau
Bản ghi trên đây có lẽ tạm cho là đúng nhất, do nguyệt san Thế Kỷ 21 (số 115, tháng 11 năm 1998, trang 8) ghi lại từ một băng thơ do Lệ Ba, ái nữ của Nguyễn Bá Trác thực hiện, với giọng ngâm của chính Lệ Ba
[/COLOR][/I]
[INDENT][INDENT][B][SIZE=4]Hồ Trường[/SIZE][/B]
[COLOR="#B22222"]Đại trượng phu[/COLOR] không hay xé gan bẻ cật phù cương thường
Hà tất tiêu dao bốn bể lưu lạc tha phương
Trời nam ngh́n dặm thẳm
Non nước một mầu sương
Chí chưa thành, danh chưa đạt
Trai trẻ bao lăm mà đầu bạc
Trăm năm thân thế bóng tà dương
Vỗ gươm mà hát
Nghiêng bầu mà hỏi
Trời đất mang mang ai người tri kỷ
Lại đây cùng ta cạn một hồ trường
Hồ trường! Hồ trường!
Ta biết rót về đâu?
Rót về Đông phương, nước biển Đông chẳy xiết sinh cuồng loạn
Rót về Tây phương, mưa phương Tây từng trận chứa chan
Rót về Bắc Phương, ngọn Bắc phong vi vút cát chạy đá giương
Rót về Nam phương, trời Nam mù mịt có người quá chén như điên như cuồng
Nào ai tỉnh, nào ai say
Ḷng ta ta biết, chí ta ta hay
[COLOR="#B22222"]Nam nhi[/COLOR] sự nghiệp ư hồ thỉ
Hà tất cùng sầu đối cỏ cây
[B]Nguyễn Bá Trác[/B][/INDENT][/INDENT]
[CENTER][video=youtube;OKHeaK0H0e0]http://www.youtube.com/watch?v=OKHeaK0H0e0[/video][/CENTER][/INDENT]
NHO như Uy Viễn Tướng Công mới là NHO ( Nho Việt thơm ngon và đáng gieo trồng)
[INDENT][INDENT][CENTER][B][SIZE=5][COLOR="#000080"]Chí nam nhi[/COLOR][/SIZE][/B][/CENTER]
[RIGHT][B]Lê Văn Phúc[/B][/RIGHT]
[CENTER][img]http://vanhocnghethuat.files.wordpress.com/2011/08/tuong_nguyen_cong_tru.jpg[/img]
Tượng đồng Nguyễn Công Trứ[/CENTER]
Thoạt nghe tựa đề này, bạn đọc đă biết ngay là nói đến ai rồi!
Thời học tṛ, khi lên tới ban trung học, ai cũng được học về một số tác giả và tác phẩm nổi tiếng, trong đó có danh nho Nguyễn Công Trứ!
Các nam sinh, học đến tác giả này đều coi đây là thần tượng của đời ḿnh, mơ uớc sau này sẽ nối gót người xưa.
Trong lịch sử văn học Việt Nam, hiếm ai có văn nghiệp, vơ công hiển hách đến như thế!
Đây cũng là một tấm gương cao cả, rực rỡ về một người thân lập thân, tài kiêm văn vơ, chí hùng bất khuất, lời nói đi đôi với việc làm, và có một tâm hồn rất ư là nghệ sĩ, đầy t́nh người, t́nh yêu và t́nh tự tin để sống một cuộc đời dẫu có khi thăng lúc trầm, khi bần hàn lúc hiển hách mà lúc nào cũng giữ được tinh thần lạc quan, phô diễn ư chí nam nhi và quyết tâm phục vụ đất nước.
***
Ông sinh ngày đầu năm Mậu Thân (1778), người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, thuộc ḍng dơi Đức Ngạn Hầu Nguyễn Công Tấn.
Con đường khoa cử của ông lận đận, măi đến năm 42 tuổi (1818) mới đậu giải nguyên kỳ thi Hương trường Nghệ rồi ra làm quan.
Suốt 30 năm xuất chính, chức vụ cao nhất là Thượng Thư, Tổng Đốc và được triều đ́nh phong là Uy Viễn Tướng Quân.
Nhưng v́ ông học rộng, tài cao, chí lớn nên cũng không tránh khỏi những nỗi thăng trầm v́ ganh ghét, dèm pha. Hai lần bị cách chức, một lần bị cách tuột xuống làm lính.
Về vơ nghiệp th́ ông rất là hiển hách, đánh đông dẹp bắc, dẹp Phan bá Vành (1827), dẹp Nông văn Vân (1833), dẹp giặc Khách (1835), trận nào cũng tỏ ra có tài thao lược.
Năm 80 tuổi, khi nghe tin quân Pháp đánh phá Đà Nẵng (1858), ông c̣n hăm hở xin vua cho cầm quân đi đánh giặc..
Được dân chúng nhớ đến nhiều nhất v́ ông là một nhà kinh tế có công khai hoang khẩn ấp ở hai huyện Tiền Hải (thuộc tỉnh Ninh b́nh) và Kim Sơn (thuộc tỉnh Thái B́nh) khi làm chức Doanh Điền Sứ thời vua Minh Mạng.
Ông chiêu mộ dân nghèo, đắp đê lấn biển vào những năm cuối thập niên 1820, đề xuất việc lập nhà học, xă thương ở nông thôn nhằm nâng cao dân trí và lưu thông hàng hóa. Những công tŕnh của ông được dân chúng nhớ ơn. Hiện nay c̣n nhiều từ đường thờ cúng ông ở hai huyện trên cũng như ở quê hương của ông. Nhiều đ́nh chùa đă thờ cúng ông và tôn làm Thành Hoàng Làng.
***
Nhưng được nhớ đến nhiều nhất, phải nói đến sự nghiệp văn chương của Nguyễn Công Trứ.
Ông đă để lại cho đời nhiều thơ văn nói về phận sự làm trai, nợ tang bồng, kẻ sĩ, thú tiêu dao, t́nh đời đen bạc, triết lư nhân sinh…
Ông mê hát ả đào, viết nhiều bài ca trù rất đa t́nh. Ông cũng là một nghệ sĩ rong chơi thoải mái, không câu nệ.
Trong lịch sử văn học nước nhà, tưởng ít ai có được sự nghiệp hiển hách mà lại đa tài, đa t́nh, đa đoan, đa sự… đến như ông!
Khi c̣n trẻ đi thi, ông đă tự nhủ lả phải đỗ đạt làm quan mới thi thố được tài năng, như trong bài “Đi thi tự vịnh”:
[I]Đi không há lẽ trở về không?
Cái nợ cầm thư phải trả xong
Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt
Dở đem thân thế hẹn tang bồng
Đă mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh ǵ với núi sông
Trong cuộc trần ai, ai đă biết
Rồi ra mới rơ mặt anh hùng.[/I]
Sống trong cảnh nghèo nhưng ông giữ cuộc sống thanh cao, phẩm cách trong sạch. Ông có khí tiết, vượt mọi trở ngại để thành đạt.
Có khi ông phải làm thầy địa lư, thầy lang bốc thuốc, thơ phú cho qua ngày, ẩn nhẫn chờ thời…
Để bầy tỏ chí hướng của ḿnh, ông có bài "Chí [COLOR="#0000FF"]nam nhi[/COLOR]", bảo rằng một người con trai thông minh, phải làm nên kẻ khác thường trong thiên hạ, phải thi thố nơi trường văn, xông pha nơi chiến trận, làm nên đấng [COLOR="#0000FF"]anh hùng[/COLOR] đâu đấy tỏ th́ mới đáng mặt nam nhi hào kiệt:
[I]Thông minh nhất nam tử
Yếu vi thiên hạ kỳ
Trót sinh ra th́ phải chi chi
Chẳng lẽ tiêu lưng ba vạn sáu
Đố kỵ sá chi con Tạo
Nợ tang bồng quyết trả cho xong
Đă xông pha bút trận, th́ gắng gỏi kiếm cung
Làm cho rơ tu mi nam tử
Trong vũ trụ đă đành phận sự
Phải có danh ǵ với núi sông
Đi không, chẳng lẽ về không.[/I]
Vẫn nói về phận sự nam nhi, ông c̣n muốn trải rộng tâm t́nh để nói lên chí hướng của ḿnh là phải vẫy vùng Nam, Bắc, Đông, Tây. Lúc nguy nan th́ ra tay buồm lái, làm nên sự nghiệp phi thường. Rồi khi công thành danh toại th́ thảnh thơi thơ túi rượu bầu, trang trắng vỗ tay reo, như bài « Chí làm trai » :
[i]Ṿng trời đất dọc ngang, ngang dọc
Nợ tang bồng vay trả, trả vay
Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây
Cho phỉ chí vẫy vùng trong bốn bể
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử
Lưu thủ đan tâm chiếu hăn thanh
Đă chắc rằng ai nhục, ai vinh
Mấy kẻ biết anh hùng khi vị ngộ
Cũng có lúc mưa dồn sóng vỗ
Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong
Chí những toan sẻ núi lấp sông
Làm nên tiếng anh hùng đâu đấy tỏ
Đường mây rộng thênh thênh cử bộ
Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo
Thảnh thơi thơ túi rượu bầu.[/i]
Chí hướng của ông đă bầy tỏ rơ ràng như vậy và ông quyết tâm theo đuổi lư tưởng của ḿnh.
Khi nói về thế nào là một [COLOR="#0000FF"]kẻ sĩ[/COLOR] trong thiên hạ, ông đă có dịp luận bàn chi tiết, ư hướng qua những vần thơ rơ nét, đanh thép, như gói ghém cả cuộc đời ḿnh trong bài « Kẻ sĩ » :
[i]Tước hữu ngũ, sĩ cư kỳ liệt
Dân hữu tứ, sĩ vi chi tiên
Có giang sơn th́ sĩ đă có tên
Từ Chu, Hán vốn sĩ này là quư
Miền hương đảng đă khen rằng hiếu nghị
Đạo lập thân giữ lấy cương thường
Khí hạo nhiên chí đại, chí cương
So chính khí đă đầy trong trời đất
Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất (1)
Hiêu hiên nhiên điếu Vị, canh Sằn (2)
Xe bồ luân dầu chưa gặp Thang, Văn
Phù thế giáo một vài câu thanh nghị
Cầm chính đạo để tịch tà cự bí
Hồi cuồng lan nhi chướng bách xuyên
Rồng mây khi gặp hội ưa duyên
Đem quách cả sở tồn làm sở dụng
Trong lăng miếu ra tài lương đống
Ngoài biên thùy rạch mũi can tương
Làm sao cho bách thế lưu phương
Trước là sĩ, sau là khanh tướng
Kinh luân khởi tâm thượng, binh giáp tàng hung trung
Vũ trụ chi gian giai phận sự, nam nhi đáo thử thị hào hùng
Nhà nước yên mà sĩ được thung dung
Bấy giờ sĩ mới t́m ông Hoàng Thạch
Năm ba chú tiểu đồng lếch thếch
Tiêu dao nơi hàn cốc thanh sơn
Nào thơ, nào rượu, nào địch, nào đờn
Đồ thích chí chất đầy trong một túi
Mặc ai hỏi, mặc ai không hỏi tới
Gẫm việc đời mà ngẫm kẻ trọc thanh
Này này sĩ mới hoàn danh[/i]
[COLOR="#808080"]Ghi chú :
(1) : «bồng tất» là hai thứ cỏ, ư nói nơi thôn quê.
(2) : «điếu Vị, canh Sằn» là câu ở sông Vị, cày ở đất Sằn, theo gương người xưa.[/COLOR]
Ngoài phận sự làm trai, Nguyễn Công Trứ c̣n là một nghệ sĩ tài hoa rất mực. Thú vui nào cũng là thú ăn chơi, thơ túi rượu bầu. Ông ca tụng thú nhàn nên có dịp là hưởng cái thú thanh cao ấy , như trong bài « Cầm kỳ thi tửu » :
[i]Cầm, kỳ, thi, tửu
Đường ăn chơi mỗi vẻ mỗi hay
Đàn năm cung, réo rắt tính t́nh đây
Cờ đôi nước, rập ŕnh xe ngựa đó
Thơ một túi, phẩm đề câu nguyệt lộ
Rượu ba chung tiêu sái cuộc yên hà
Thú xuất trấn, tiên vẫn là ta
Sách Hoàng Thạch, Xích Tùng, ờ cũng dáng
Cầm tứ tiêu nhiên, kỳ tứ sảng
Thi hoài lạc hĩ, tửu hoài năng (1)
Một chữ nhàn giá lại đáng muôn chung
Người ở thế, dẫu trăm năm là mấy
Sách có chữ, « nhân sinh thích chí »
Đem ngàn vàng chác lấy chuyện cười
Chơi cho lịch mới là chơi
Chơi cho đài các, cho người biết tay
Tài t́nh dễ mấy xưa nay.[/i]
[COLOR="#808080"]Ghi chú
(1) : Tiếng đàn trong trẻo, nước cờ sáng sủa, ḷng thơ vui vẻ, chén rượu nồng nàn.[/COLOR]
Nói về tính nghệ sĩ của Nguyễn Công Trứ, sách cũng chép rằng :
Thuở chưa làm nên danh phận, ông cũng theo đoàn hát đi hát dạo rong chơi. Có lần giữa cánh đồng, ông đă « nhập nhằng » được với một cô đào trong đoàn hát. Chuyện ấy cũng coi như chuyện bướm với hoa , như trăng với gió, như ta với ḿnh…
Rồi công danh đến tay, ông ra làm quan, rất là danh giá.
Một bữa, có đoàn hát dạo vào phủ tŕnh diễn. Cô đào hát năm xưa thấy bây giờ quan lớn như thần, nhớ lại ngày cũ từng có lần ân ái với chàng, mới hát một câu rằng :
[I][COLOR="#800080"]Giang sơn một gánh giữa đồng
Thuyền quyên ứ hự, anh hùng nhớ chăng ?[/COLOR][/I]
Quan lớn thấy người yêu anh hỡi, nhớ lời ăn tiếng nói, nhớ những phút mặn mà kề môi áp má với người t́nh xưa th́ nhận ra ngay, lấy làm cảm động lắm. Mới hỏi han rất ân cần, rồi lại chu cấp cho người xưa chút tiền bạc để làm hành trang lúc tạ từ, lưu luyến chia tay…
Ông không quên thuở xa xưa văn nghệ văn gừng, vẫn nhớ mối duyên t́nh ngày nọ, không sợ ai chê cười, không chối từ dĩ văng mà coi đó là một kỷ niệm đẹp, khó quên trong cuộc đời ḿnh.
Cả đến khi về ǵà, ngoài 70 tuổi ông mới cưới một nàng hầu c̣n trẻ măng mới ngoài hai mươi tuổi.
Nên trong bài « Giả cưới nàng hầu » có đoạn người con gái vừa cưới hỏi tuổi người yêu th́ chàng đánh trống lảng, đáp ỡm ờ rằng : [I]Năm mươi năm trước, tớ mới có hai mươi ba tuổi thôi à ![/I]
[I]…Tân nhân dục vấn lang niên kỷ
Ngũ thập niên tiền, nhị thập tam
T́nh đă chung, lứa cũng phải vam
Suốt kim cổ lấy làm phận sự
Trong trần thế duyên duyên, nợ nợ
Duyên cũng đành mà nợ cũng đành
Xưa nay mấy kẻ đa t́nh
Lăo Trần là một với ḿnh là hai
Càng già, càng dẻo, càng dai…[/I]
Trong thơ của ông, ít ai để ư đến bài diễn tả nỗi niềm riêng của kẻ ôm mối nhớ nhung thầm kín. Không biết « người xưa lưu luyến ra sao nhỉ ? », chứ như Nguyễn Công Trứ th́ ông rất thành thực, nghĩ sao nói vậy, diễn tả mối « Tương tư » như trong bài này :
[I]Tương tư không biết cái làm sao
Muốn vẽ mà chơi, vẽ được nào ?
Lúc đứng, lúc ngồi, khi nói chuyện
Lúc say, lúc tỉnh, lúc chiêm bao
Trăng soi trước mặt ngờ chân bước
Gió thổi bên tai ngỡ miệng chào
Một nước một non, người một ngả
Tương tư không biết cái làm sao ?[/I]
Hai câu giữa bài nói lên được ư t́nh của kẻ tương tư :
[I]Trăng soi trước mặt ngờ chân bước
Gió thổi bên tai ngỡ miệng chào[/I]
Khi vào đời, ông mang văn chương, vơ nghiệp giúp dân giúp nước nhưng v́ tài cao chức trọng nên cũng không tránh khỏi ganh ghét, sàm tấu đến nỗi có lần từ cấp tướng bị giáng xuống hàng binh nh́, đang ở chốn cao sang bỗng nhận được sự vụ lệnh ra tiền đồn thành kẻ ở miền xa. Ông cũng không thù hận chi ai mà coi đó là nhân t́nh thế thái.
Nên khi cáo quan, ông coi như « Thoát ṿng danh lợi » để trở về vui thú điền viên, bạn cùng cây cỏ, chén rượu cuộc cờ, phong nguyệt riêng ta :
[I]Chen chúc lợi danh đà chán ngắt
Cúc, tùng, phong, nguyệt mới vui sao
Đám phồn hoa trót bước chân vào
Sực nghĩ lại giật ḿnh bao siết kể
Quá giả văng nhi bất thuyết
Cái h́nh hài làm thiệt cái thân chi
Cuộc đời thử gẫm mà suy
Bạn tùng cúc xưa kia là cố cựu
Hẹn với lợi danh ba chén rượu
Vui cùng phong nguyệt một bầu thơ
Chuyện cổ kim so sánh tựa bàn cờ
Riêng vui thú giang sơn phong nguyệt
Mặc xa mă thị thành không dám biết
Thú yên hà trời đất để riêng ta
Nào ai, ai biết chăng là ?[/I]
Sau bao năm làm quan, cầm quân đánh giặc, lo cả đến việc chăm sóc dân sinh, ông coi như đă làm tṛn phận sự người trai để trở về với đời sống thiên nhiên, vui cùng thơ văn, núi cao sông rộng trong cảnh nhàn lúc tuổi già . Sau đây là bài « Chữ nhàn » :
[I]Thị tai môn tiền náo
Nguyệt lai môn hạ nhàn
So lao tâm lao lực cũng một dàn
Người trần thế muốn nhàn sao được?
Nên phải giữ lấy nhàn làm trước
Dẫu trời cho có tiếc cũng xin nài
Cuộc nhân sinh bẩy tám chin mười mươi
Mười lăm trẻ, năm mươi già không kể.
Thoát sinh ra th́ đà khóc chóe
Trần có vui sao chẳng cười kh́?
Khi hỉ lạc, khi ái ố, lúc sầu bi
Chứa chi lắm một bầu nhân dục.
Tri túc, tiện túc, đăi túc hà thời túc
Tri nhàn, tiện nhàn, đăi nhàn hà thời nhàn
Cầm kỳ thi tửu với giang sơn
Dễ mấy kẻ xuất trần xuất thế.
Ngă kim nhật tại tọa chi địa
Cổ chi nhân tằng tiên ngă tọa chi
Ngàn muôn năm âu cũng thế ni
Ai hay hát mà ai hay nghe hát?
Sông Xích Bích buông thuyền năm Nhâm Tuất
Để ông Tô riêng một thú thanh cao
Chữ nhàn là chữ làm sao?[/I]
Nhớ lại trong cuộc đời ông, giai đoạn khốn cùng nhất có lẽ là thời kỳ trai trẻ, công chưa thành, danh chưa toại mà nhà lại nghèo nên ông đă có một bài phú – có lẽ là bài dài nhất trong thơ Nguyễn Công Trứ – diễn tả cái cảnh nghèo hèn cùng cực của một nho sĩ ôm chí lớn những toan lấp biển dời non mà phải đành chịu cảnh tang thương như bài "Hàn nho phong vị phú". Xin trích đoạn:
[I]Chém cha cái khó, chém cha cái khó
Khôn khéo mấy ai, xấu xa một nó…
…Ḱa ai:
Bốn vách tường mo, ba gian nhà cỏ
Đầu kèo mọt đục vẽ sao, trước cửa nhện giăng màn gió
Phên trúc ngăn nửa bếp nửa buồng
Ống nứa đựng đầu kê đầu đỗ
Đầu giường tre, mối giũi quanh co
Góc tường đất, trùn lên lố nhố
Bóng nắng giọi trứng gà bên vách, thằng bé tri trô
Hạt mưa soi hang chuột trong nhà, con mèo ngấp ngó
Trong cũi, lợn nằm gặm máng, đói chẳng buồn kêu
Đầu giàn, chuột khóc khua niêu, buồn thôi lại bỏ
Ngày ba bữa vỗ bụng rau b́nh bịch, người quân tử ăn chẳng cần no
Đêm năm canh an giấc ngáy kho kho, đời thái b́nh cổng thường bỏ ngỏ
Ấm trà góp lá bàng lá vối, pha mùi chát chát chua chua
Miếng trầu têm vỏ mận vỏ dà, buồn miệng nhai nhai nhổ nhổ
Áo vải thô nặng trịch, lạnh làm mền, nực làm gối, bốn mùa thay đổi bấy nhiêu
Khăn lau giắt đỏ ḷm, giải làm chiếu, vận làm quần, một bộ ăn chơi quá thú
Đổ mồ hôi: vơng lác, quạt mo
Chống hơi đất: dép da, guốc gỗ
Miếng ăn sẵn, cà non mướp luộc, ngon khéo là ngon!
Đồ chơi nhiều quạt sậy điếu tre, của đâu những của!
Đồ chuyên trà, ấm đất sứt ṿi
Cuộc uống rượu, be sành chắp cổ….
…Gấp khúc lươn, nên ít kẻ yêu v́
Trương mắt ếch, biết vào đâu mượn mơ?
Đến lúc niên chung nguyệt quư, lấy chi tiêu đồng nợ đồng công
Gặp khi đường xẩy chân cùng, nên phải đến cửa này cửa nọ
Thân th́ to to nhỏ nhỏ, ta đă mỏi cẳng ngồi tŕ
Dần dà nọ nọ kia kia, nó những vuốt râu làm bộ
Thầy tớ sợ men t́m đến cửa, ngảnh mặt cúi đầu
Chị em e vất lấm vào lưng, ch́a môi nhọn mỏ
Láng giềng ít kẻ tới nhà
Thân thích chẳng ai nh́n họ…[/I]
Mấy ai trong cảnh hàn vi mà vẫn giữ được cái phong vị nho nhă, khốn cùng mà vẫn ung dung, mạt vận mà vẫn thanh thản chờ ngày rồng mây mờ hội. Ông lại c̣n có những nhận xét tỉ mỉ và thi vị hóa cái nghèo. Như thể đó là cái thú của kẻ chưa gặp thời vận. Ông kết luận:
[I]… Khó ai bằng Măi thần, Mông Chính, cũng có khi ngựa cưỡi dù che
Giầu ai bằng Vương Khaỉ, Thạch Sùng, cũng có hội tường xiêu, ngói đổ.
Mới biết:
Khó bởi tại trời, giầu là có số…[/I]
Sau những thăng trầm trong cuộc đời đầy hiển vinh cũng như nhiều sóng gió, khi từ quan, ông thường cưỡi ḅ vàng, theo sau vài tiểu đồng bầu rượu túi thơ, rong chơi khắp miền thôn dă, núi sông, vui cùng cảnh đẹp, ngâm vịnh, nhàn hạ và nh́n đời bằng con mắt của một triết nhân.
Triết lư ấy gói ghém trong bài vịnh "Cây thông":
[COLOR="#0000FF"][I]
Ngồi buồn mà trách ông xanh
Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười
Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
Giữa trời vách đá cheo leo
Ai mà chịu rét th́ trèo với thông…[/I][/COLOR]
Nói tóm lại, Nguyễn Công Trứ đă trải qua những cảnh đời lắm nỗi gian truân, nhiều nét phong trần tang thương biến đổi, mà cũng chẳng biết ăn ở làm sao cho vừa được ḷng người.
Nên cuối đời, ông cầu mong nếu có kiếp sau th́ xin được làm thân cây thông đứng giữa trời mà reo cùng trời mây non nước, xa lánh bụi hồng trần…
[COLOR="#4B0082"]Nh́n chung, cuộc đời của danh nho, danh tướng Nguyễn Công Trứ có nhiều nét ly kỳ mà cũng thực tuyệt vời…
Một người văn vơ song toàn, tri hành hợp nhất, khi chưa thành đạt vẫn nuôi chí kiên cường làm nên sự nghiệp; khi ra làm quan đă mang hết tâm lực, tài năng phụng sự quốc gia; hoàn cảnh nào cũng bền tâm vững chí làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ.
Gương sáng ấy đă là ánh đuốc, là lư tưởng cho nhiều thế hệ soi chung.
Có ai theo được gót danh nhân Nguyễn Công Trứ th́ ngay con cháu ông cũng chưa ai theo kịp!
Nhưng nhiều tầng lớp người trẻ Việt Nam đă thấm nhuần được phần nào lư tưởng của người xưa để làm hành trang trong cuộc đời trước mặt…[/COLOR]
Ông mất ngày mùng 7 tháng 12 năm 1858, thọ 80 tuổi.
Trong tang lễ, vua Tự Đức có khen ngợi văn tài vơ tướng của Nguyễn Công Trứ qua hai câu:
[I]Tả hữu nghi văn nghi vơ
Tử sinh danh tướng danh thần.[/I]
Nguyễn Công Trứ là một tấm gương sáng chói trong lịch sử danh nhân Việt Nam.
[B]Lê Văn Phúc[/B][/INDENT][/INDENT]
Chuyện xưa - Chuyện nay- Chuyện anh hùng, hảo hán , tráng sĩ ... C̉N CHUYỆN DÂN GIAN ?!
[INDENT][INDENT][CENTER][B][SIZE=4]Chuyện xưa - Chuyện nay- Chuyện anh hùng, hảo hán , tráng sĩ ... đă khá đủ
Bây giờ xin trở lại CHUYỆN DÂN [COLOR="#FF0000"][I]GIAN[/I] [/COLOR]?![/SIZE][/B]
[B]o0o[/B]
[B][COLOR="#800000"][SIZE=4]Bàn lại một số tục ngữ quen thuộc [/SIZE][/COLOR][/B][/CENTER]
[RIGHT][B] Trần Văn Giang[/B][/RIGHT]
[I][COLOR="#808080"]LGT:Tục ngữ là những câu nói dân gian ngắn gọn, ổn định, có nhịp điệu, h́nh ảnh, thể hiện kinh nghiệm của người dân về mọi mặt (sống tự nhiên, lao động, sản xuất, giao tiếp xă hội), được dân ta áp dụng vào đời sống, sự suy nghĩ và lời ăn tiếng nói hằng ngày. Đây là một loại văn học dân gian.
- Theo wikiquote.org[/COLOR][/I]
*
Năm nào cũng vậy, cứ vào lúc năm cùng tháng tận sau ngày "lễ Tạ Ơn," nhiều dịp lễ lạc đến nối tiếp nhau. Thiên hạ đua nhau t́m mọi để cách xài tiền (có lẽ để phần nào giúp cho kinh tế đỡ suy thoái), đi sắm sửa lung lung chuẩn bị cho lễ Giáng sinh, tết Tây, tết Ta… Ở thời điểm này, tôi thường nhàn rỗi, chẳng có ǵ quan trọng để làm ngoài việc ngồi găi trán, coi chừng nhà, đuổi chó, đuổi chim chờ vợ con đi "Shopping" mệt nghỉ. Đầu óc tôi hay lơ đăng rơi vào đúng cái cảnh nhàn cư vi bất thiện. Tôi tự dưng nghĩ vớ vẩn về một vài "triết lư vụn" của đời sống.
Lần này, không hiểu có phải v́ tôi đă ăn quá đà món giả cầy hay không mà bụng dạ dở chứng muốn sủa bậy vài tiếng để tỏ ra cho thiên hạ biết ḿnh cũng là "trí thức giả cầy," có nghĩa là giả dạng làm ánh sáng 2-3 nến soi vào một vài khoảng tranh tối tranh sáng của các kinh nghiệm vẫn được xem là khuôn thước của sự suy nghĩ trong đời sống.
Tôi xin phép lạm bàn về một số tục ngữ quen thuộc trong dân gian như sau.
[B][COLOR="#B22222"]"Đi với Bụt mặc áo cà-sa, đi với ma mặc áo giấy."[/COLOR][/B]
Tục ngữ vẫn thường một lúc có cả hai nghĩa đen và bóng. Theo tôi, nghĩa đen của câu tục ngữ này sai hoàn toàn… Tôi đă chứng kiến qua mấy chục năm trời, bà mẹ tôi đă đi chùa rất nhiều lần; thế nào mà Cụ cũng chẳng có cơ hội gặp "Bụt?" Thế mà tôi chưa hề thấy bà Cụ tôi mặc "áo cà-sa" bao giờ. Khi bà Cụ tôi tịch, lúc khâm liệm Cụ vẫn mặc một bộ quần áo bảnh nhất của Cụ bằng vải đắt tiền lấy ra từ tủ áo chứ không phải "áo giấy" rẻ tiền mua ở chợ tàu… Theo lẽ thường t́nh, người không tu hành mà lại muốn mặc áo thầy tu là chuyện không tưởng, chuyện kể cho vui. Vả lại, ở thế kỷ 21, người tu hành bây giờ cấp tiến lắm rồi chứ không phải như ngày xưa: Qua tin tức, h́nh ảnh phát tán rộng răi trên mạng, nhiều t́ kheo Phật giáo trong nước tay đeo đồng hồ Rolex mạ vàng, lái xe "Dream" mới cáo cạnh, đội mũ "an toàn" à-la-mốt và hănh diện khoe kúc đang dùng "điện thoại tinh khôn" (IPhone6 / Smartphone) loại "xin" mới nhất trên thị trường (top of the line). Ngoài ra, cũng nên biết thêm y phục của đức Giáo hoàng Thiên chúa giáo của Giáo hội La mă được thiết kế rất đẹp bởi Georgio Armani… Loại y phục mà chỉ có người giàu có, thế lực – như chính khách lớn, tài tử điện ảnh, luật sư đắt giá (power lawyers) chẳng hạn - mới có tiền mua. Đó là vài nét trật gọng trên nghĩa đen của câu tục ngữ này.
Về nghĩa bóng, câu này cũng chỉ đúng một phần nhỏ thôi. Thực tế cho thấy nếu thấy một người không hề thuộc một nhóm, một cộng đồng nào mà lại cố t́nh giả dạng trà trộn vào (như mặc áo cà sa vào chùa) th́ khi bị phát giác dám mất mạng lắm. Mấy anh vi-xi trong các kế hoạch "trường kỳ mai phục" đă hết ḿnh lặn sâu trèo cao để t́m mọi cách trà trộn phá hoại, triệt hạ phe quốc gia như các đ/c Vũ Ngọc Nhạ, Nguyễn Thành Trung, Phạm Xuân Ẩn, Nguyễn Hữu Hạnh… trước năm 1975. Đám đ/c này rành sáu câu vọng cổ bài bản "đi với Bụt mặc áo cà sa" hơn ai hết... Bây giờ, ở hải ngoại lại thấy thấp thoáng có vài anh HO, vượt biên tị nạn cs loại top-gun cũng có như Đổ máo, Nguyễn cao kầy, Phạm duy tiền… và vài anh tị nạn cù-lũ-nhí cũng có như Trần Truồng, Nguyễn Phương Khùng, Nguyễn Ngọc Lờ, Nguyễn Hữu Liếm… xin phép được mặc áo giấy màu đỏ sao vàng để đi chung đám với ma vi-xi… Cái đám ma bùn ăn cơm quốc gia thờ ma cs này v́ h́nh thù xấu xí (ugly Vietnamese) nửa ngợm nửa ma cho nên vi-xi chưa tin, c̣n ngờ vực; thành thử cho đến giờ phút này chẳng làm nên tṛ trống ǵ. Chỉ tổ bị thiên hạ chửi là đần độn… nhục thật!
Ngoài ra, đồng nghĩa với câu nói "… mặc áo cà sa" này c̣n có câu "Nhập gia tùy tục." Thực tế rơ ràng, các giống dân ăn Đậu, Nước Mắm, X́ dầu- Củ cải muối, Sushi, Kim chi-Củ Sâm, Cà-ri-nị… di cư vào cái gọi là "melting pot" Hiệp Chủng Quốc mà chẳng có anh nào chịu "melt" (ḥa đồng / tùy tục) hết trơn hết trọi. Họ vẫn khư khư, khơi khơi giữ các truyền thống văn hóa nhiều khi rất quái đản của họ chứ có anh nào chịu khó "tùy tục" đâu hè!
Thành thử đi với Bụt chẳng nhất thiết phải mặc áo cà sa; và hơn nữa, đi với ma th́ mặc áo ǵ cũng được, không cần phải lựa chọn làm chi cho tốn tiền, toát mồ hôi!
[B][COLOR="#B22222"]"Xấu đẹp tùy người đối diện"[/COLOR][/B]
Câu nói này, theo tôi, có vẻ thiếu thành thực bởi v́ cuộc đời lúc nào cũng luôn luôn có sẵn người xấu và ngưởi đẹp; cái xấu và cái đẹp. Nếu bác nào không thể phân biệt được người đẹp và người xấu, cái đẹp cái xấu th́ hiển nhiên thị giác của bác đó có vấn đề lớn. Cùng vào một thời điểm (point of time), phẩm chất (quality) của một nhan sắc hay, một nét đẹp tự nhiên, một tư cách luôn luôn cố định không thể thay đổi 1 thành 2; hay ngược lại 2 thành 1. Kinh nghiệm riêng của một người b́nh thường có thể chi phối cách nhận định của người đó về đối tượng là xấu hay đẹp (có hay không có nhan sắc); nhưng một điều rất rơ rệt, có thể gọi là "chân lư," là những "chuyên viên nghệ thuật" ở cấp cao, tỉnh táo ít khi bất đồng ư về cái đẹp và cái xấu; nét đẹp của một giai nhân hay một bức họa tuyệt tác.
[COLOR="#800080"]
Một số người Việt tị nạn cộng sản ở ngoại quốc có tâm không ổn, trí có đóng nhiều màng nhện bỗng nhiên mắc phải khuyết tật của những người loạn thị loại này: Bây giờ bỗng nhiên họ nh́n bọn sát nhân cộng sản từng giết người không gớm tay thấy sao chúng nó cũng bằng cấp đầy quần, tử tế đẹp giai ra phết?![/COLOR]
"Xấu đẹp tùy người đối diện" theo tôi phải được đổi thành "Ăn nhẳm cái giống ǵ mà mà ngu quá vậy?"
[COLOR="#B22222"][B]"Ở hiền gặp lành"[/B][/COLOR]
Theo quan niệm xưa:
Khổng Mạnh khuyên con người nên sống phải đạo (Hiền) và chịu đựng (Nhẫn) th́ chuyện "lành" sẽ đến.
Nhưng trong thực tế, chẳng hạn như cuộc sống dưới chế độ cs, "Ở hiền" mà gặp phải cỡ "Giết! Giết nữa! Bàn tay không ngớt nghỉ…" th́ bỏ mẹ cả đám; làm ǵ mà có cơ hội để gặp "bác lành." May lắm, nếu không bị chết sớm th́ cũng chỉ làm đến dân oan là cùng… Mất nhà, mất đất, mất ruộng, mất tương lai, mất hết tất cả không ai thương tiếc… mà c̣n bị Tố hữu (bút hiệu của bác "Bốn Lành") làm thơ "cắt mệnh" đ́ thêm cho đáng đời th́ chết sớm c̣n sướng hơn.
Từ đó suy ra, dân ta phải hiểu và áp dụng chữ "Ở hiền" như thế nào cho phù hợp với hoàn cảnh; hoặc nhiều khi phải mạnh dạn đổi cách sống thành "cương / cứng rắn" (nhưng không nhẫn tâm làm hại người khác) để bảo vệ lẽ phải, quyền lợi chính đáng… Có như thế th́ may ra mới có thể thay đổi được hoàn cảnh, mới chứng minh được chân lư; chứ không nếu cứ nhắm mắt nhắm mũi "ở hiền" th́ coi như đồng nghĩa với tự sát, hay thủng thẳng, tà tà chờ chết vậy...
Nh́n chung, dân ḿnh hiền quá, bị bác và đảng thay phiên nhau hiếp dâm giữa ban ngày trời sáng mà cứ "nhẫn" nhục im thin thít chẳng thấy kêu đau ǵ cả? Mà h́nh như có kêu đau th́ bác và đảng cũng đâu có nghe. Bác và đảng c̣n đang bận định hướng xă hội chủ nghĩa và tiếp đối tác kinh tế.
Theo tôi, bây giờ qua hoàn cảnh ở quê nhà, có lẽ nên đổi câu "Ờ hiền gặp lành" thành ra "Hiền Giả Quá Ngu" cũng đặng! Ngu chi mà ngu tận mạng… Thật tội nghiệt!
[B][COLOR="#B22222"]"Đi hỏi già về nhà hỏi trẻ"[/COLOR][/B]
Câu tục ngữ này trước đây vẫn được hiểu là:
Người già hiểu biết, nhiều kinh nghiệm; v́ thế trước khi đi đâu, làm việc ǵ chúng ta cần tham khảo ư kiến của họ. Trẻ em thường ngây thơ, trong sáng không (chưa) biết nói dối (?) nên khi khi cần t́m hiểu chuyện ǵ xẩy ra chung quanh nhà th́ nên hỏi chúng.
Không phải tôi có ư vơ đũa cả nắm, v́ chính bản thân tôi cũng gần 7 bó rồi, nhưng một số anh già bây giờ càng lúc càng tỏ ra vô tích sự. Đă không chịu bỏ chút ít thời giờ nhàn rỗi ra học hỏi thêm để bắt kịp các tiến bộ khoa học mà lại chỉ thích nhậu, cà-phê, tán phét, chửi đổng, chê bai bên trái bên phải không chừa ai, thọc gậy bánh xe, phá bĩnh vô trách nhiệm… c̣n nếu có chút thời giờ th́ lại t́m cách tra cập cho bằng được các khoản trợ cấp của chính phủ hoặc xem phim "3 con Ếch… / xxx" Muốn hỏi mấy anh già này một ít kiến thức tổng quát về kinh tế, chính trị, thời sự , văn hóa, tin học… để đi xa th́ cũng như đi vớt ánh trăng dưới đáy hồ. Ngược lại, lớp trẻ ở thế hệ một rưỡi hay thế hệ thứ hai có năng lực, không bị rào cản ngôn ngữ, dễ hội nhập dường như theo kịp đà với văn minh đương đại, có thể nhờ vả được.
Ở thế kỷ này, đành phải "Đi hỏi trẻ mà về nhà cũng hỏi trẻ" luôn cho nó chắc ăn! Bởi v́ làm sao có thể tin tưởng câu trả lời của mấy anh già lăng trí "ao-dai-mơ!"…
Theo tôi, để cho mọi chuyện êm thắm và an toàn hơn th́ nên "Đi th́ hỏi vợ; mà về nhà cũng hỏi dzợ." Chắc ăn như bắp Không thể nào sẩy được…
[COLOR="#B22222"][B]"Thà chậm mà chắc"[/B][/COLOR]
Câu này ngay tử đầu đă có vẻ ngớ ngẩn. Dường như chỉ là cách bào chữa vụng về của mấy anh kém thông minh, tài hèn sức mọn, làm hoài không xong việc.
Ở thời buổi "Đi từ zero đến 60 dặm một giờ trong ṿng có 4.5 giây đồng hồ" (from 0 to 60 in 4.5 seconds) mà làm chậm th́ không chết đói chết rét th́ cũng mất việc sớm.
Mấy anh Tiến sĩ Giáo sư ở Việt Nam không làm nổi một cái đinh vít, thường hay lạm dụng câu nói này trong mọi trường hợp, hay khi đang làm bất cứ một việc ǵ… Đă không chịu nh́n nhận là con rùa lật ngửa rồi mà mấy bố tiến sĩ c̣n dọa là "Nhanh quá rất nguy hiểm." Nè! Nếu mấy cha biết rơ là ḿnh sẽ phải làm cái ǵ (if you know what you are doing) th́ không có vấn đề nhanh hay chậm ở đây. Tranh căi chỉ làm mất thời giờ.
[B][COLOR="#B22222"]"Trông mặt mà bắt h́nh dong"[/COLOR][/B]
Theo lối suy luận cũ:
Bộ mặt phản ảnh tâm lư, suy nghĩ của con người đặc biệt là đôi mắt (c̣n được gọi là cửa sổ của tâm hồn) biểu hiệu các trạng thái tâm lư có thể là: lo âu, giận hờn, e thẹn, xấu hổ… Cứ nh́n vào tấm ảnh chụp thẳng mặt là có thể đoán được đến 70-80% tính t́nh một người. Tâm đẹp th́ mặt mới đẹp, nhân nào quả nấy, cái tâm được thể hiện hết qua khuôn mặt. Tâm là nhân c̣n mặt là quả. Tâm tính như thế nào th́ hiện ra khuôn mặt như thế ấy…
Chà chà! Nghe có vẻ như đinh đóng cột. Tuy nhiên, nói vậy mà không hẳn phải như vậy, có nhiều người rất khéo che đậy ư nghĩ, âm mưu, thủ đoạn của họ. Có người gian ác, nham hiểm họ có tài đeo mặt nạ hiền giả suốt đời.
Thực tế cho thấy: Nhận xét về con người qua h́nh tướng không c̣n chính xác nữa. Tại sao vậy? Bởi v́ kỹ nghệ sửa sắc đẹp đă và đang phát triển như nấm dại mọc sau cơn mưa rào. Chỉ riêng thành phố Hán thành (Seoul) của Nam Hàn có đến 4000 bác sĩ hành nghề sửa sắc đẹp… Nhiều người sửa sắc đẹp đến mức người khác nếu phải nh́n vào thẻ căn cước của họ th́ không thể nhận ra họ là ai nữa th́ làm sao mà biết được ḷng dạ họ.
Ngoài ra, theo kinh nghiệm bản thân người viết, xin nói thêm rằng: Có khi v́ hoàn cảnh sống nó làm cho cho người ta có tướng (xấu) chứ không hoàn toàn đó là người xấu. Đó là chưa nói trong tướng học khi nghiên cứu sâu mới biết là có ẩn tướng: Cái tướng cao quư hoặc gian sảo đôi khi không lộ ra hoặc không thể nhận ra nếu chỉ quan sát thoáng qua và không có kinh nghiệm.
Như vậy câu "Trông mặt mà bắt h́nh dong" có vấn đề. Nhiều khi có thể đem đến sự thất lễ hoặc phiền toái, lầm lẫn, bị đánh lừa trong nghệ thuật giao tiếp.
Biết người th́ biết mặt chứ khó biết được ḷng.
[B]Lời cuối[/B]
Người viết không có ư định gạt bỏ các tục ngữ, châm ngôn cũ trong kho tàng văn hóa dân gian. Phần lớn các câu nói cũ vẫn c̣n đúng ít hay nhiều. Người viết chỉ muốn nêu lên một vài câu tiêu biểu tương đối có vấn đề khá rơ rệt ở thời buổi này mà mỗi khi dùng đến nó chúng ta cần phải suy nghĩ kỹ lại. [B][COLOR="#0000FF"]Nobody gets hurt![/COLOR][/B]
Thân mến,
[B]Trần Văn Giang [/B]
[/INDENT][/INDENT]
Hảo Hán hay Tráng sĩ một đi không trở lại !!
[QUOTE=SilverBullet;219845][INDENT][I][COLOR="#808080"]Bài thơ nổi tiếng Hồ Trường do Nguyễn Bá Trác sáng tác
Thời gian trôi qua, có nhiều bản chép lại với những chi tiết khác nhau
Bản ghi trên đây có lẽ tạm cho là đúng nhất, do nguyệt san Thế Kỷ 21 (số 115, tháng 11 năm 1998, trang 8) ghi lại từ một băng thơ do Lệ Ba, ái nữ của Nguyễn Bá Trác thực hiện, với giọng ngâm của chính Lệ Ba
[/COLOR][/I]
[INDENT][INDENT][B][SIZE=4]Hồ Trường[/SIZE][/B]
[COLOR="#B22222"]Đại trượng phu[/COLOR] không hay xé gan bẻ cật phù cương thường
Hà tất tiêu dao bốn bể lưu lạc tha phương
Trời nam ngh́n dặm thẳm
Non nước một mầu sương
Chí chưa thành, danh chưa đạt
Trai trẻ bao lăm mà đầu bạc
Trăm năm thân thế bóng tà dương
Vỗ gươm mà hát
Nghiêng bầu mà hỏi
Trời đất mang mang ai người tri kỷ
Lại đây cùng ta cạn một hồ trường
Hồ trường! Hồ trường!
Ta biết rót về đâu?
Rót về Đông phương, nước biển Đông chẳy xiết sinh cuồng loạn
Rót về Tây phương, mưa phương Tây từng trận chứa chan
Rót về Bắc Phương, ngọn Bắc phong vi vút cát chạy đá giương
Rót về Nam phương, trời Nam mù mịt có người quá chén như điên như cuồng
Nào ai tỉnh, nào ai say
Ḷng ta ta biết, chí ta ta hay
[COLOR="#B22222"]Nam nhi[/COLOR] sự nghiệp ư hồ thỉ
Hà tất cùng sầu đối cỏ cây
[B]Nguyễn Bá Trác[/B][/INDENT][/INDENT]
[CENTER][video=youtube;OKHeaK0H0e0]http://www.youtube.com/watch?v=OKHeaK0H0e0[/video]
[/CENTER][/INDENT][/QUOTE]
............. Cảm ơn T/v Silver Bullet đă posted lên hai bài thơ 1 của Á Nam Trần tuấn Khải và một của Nguyễn bá Trac.. đọc hai bài này lại nhớ đến ban Kịch sông Hồng lần đầu tiên Tổng hội sinh viên Hà nội dàn dưng lên vở kịch Mài gươm dưới trăng.. tại nhà Hát Lớn Thành phố..đă ngâm lên lúc tŕnh diễn .
Đám tuổi trẻ ngày nay, khi đọc hai bài thơ này chắc không biết đến sự tích của nhân vật trong thơ, nếu T/v SB có thể nào giải thích bối cảnh và nhân vật th́ các em cháu sẽ hiểu rộng răi hơn về thời phong kiến quân chủ... Rất cảm ơn ./. nmq
Biết th́ nói biết, không biết th́ nhận không biết, tức là biết vậy!
[QUOTE=Mau_Than_68;219798]"Bất đáo Trường Thành phi hảo hán"!
Co' ngay anh, đúng y chang nếu agrandir cái h́nh mầu nâu th́ sẽ thấy gịng chữ:"Bất đáo Trường Thành phi hảo hán"!
[URL]http://dulichdalat.pro/DIA-DIEM-DU-LICH/Doi-Mong-Mo.html[/URL]
[IMG]http://xspace.talaweb.com/giaydantuongdalatadmin/home/doimongmo112.jpg[/IMG][/QUOTE]
Cám ơn Mậu Thân 68 đă cho coi cái h́nh thiệt của "Vạn Lư Trường Thành made in VC"
với chữ viết bằng tiếng Việt "bất đáo Trường Thành phi hảo hán". Xưa nay nghe tin màcứ ngờ ngợ không biết thực hư ra sao.
Coi chừng nay mai Bắc bộ phủ VC giở chứng viết trước cổng vào lăng Hồ ḍng chữ
" Bất đáo Hồ lăng phi hảo hán" th́ sao?!!!! Và con cháu lăo Hồ lại dịch rằng th́ là
" Không thăm lăng bác là không yêu nước" th́ chết cha thiên hạ!
Tầu phù xưa nay vẫn hănh diện nói câu "Vạn Lư Trường Thành thiên hạ dị...!" để câu
tiền du khách, và họ đă hốt vô số đô của khách Tây phương về bức tường dài này.
Không biết Tầu có nói cho du khách biết bao nhiêu mạng người, bao nhiêu xương máucủa dân Tầu chôn dưới khối đất đá vô tận đó, và nếu không có nó, Mông, Nguyên đă
xực tái nước Tầu tự ngh́n xưa! Binh hùng tướng mạnh của Tầu chỉ nhờ vào cái trường thành mà sống c̣n, có ǵ "hảo hán, hảo hớn" đâu!
Dù không ưa Tầu phù cộng sản, nhưng tôi vẫn thích câu của Tầu tiền cộng sản cả
ngh́n năm, câu " Bất tri vi bất tri... thị tri giả", nôm na có ư " ḿnh không biết th́ nói ḿnh không biết, tức là ḿnh biết vậy!". Tức ḿnh biết ḿnh dốt và ḿnh nhận ḿnh
dốt, đó là tư cách của một người tự trọng... Cái này không hề thấy trong đám VC đang ngồi trên đầu dân ở Việt Nam...!
Cám ơn sự chỉ giáo của bà con...
Hải Triều
604 879 1179