36 NĂM ‘QUỐC HẬN’ TÔI NGHĨ G̀?
Nhân ngày Quốc Hận 30 Tháng Tư lần thứ 36, đọc lại bài thơ ‘V́ Ấu Trĩ’ của tác giả thi sĩ Khuyết Danh, tôi ngậm ngùi nhớ lại thảm cảnh quốc phá gia vong xảy ra cách đây đă 36 năm - thương tiếc tác giả, có lẽ đă chết trong ngục tù CS - nhớ tới những oan hồn dưới ḷng biển, trên núi, trong rừng - nhớ tới những chiến sĩ, đồng bào, bè bạn đă nằm xuống v́ chiến cuộc kéo dài suốt 20 năm (1954-1975) - nhớ lại thời điểm 30-4-1975 khi miền Nam rơi vào tay Cộng đảng với biết bao oan khiên nghiệt ngă. Nhân tiện, tôi xin mượn nội dung bài thơ này, khai triển thêm vài suy nghĩ riêng tư.
Bằng 2 câu cuối của bài thơ, tác giả Khuyết Danh đă thay mặt nhiều người, thốt ra lời ai oán:
Miền Nam ơi, từ buổi tiêu tan,
Ta sống trọn vạn ngàn cơn thác loạn!
V́ là người lớn lên, sinh sống và làm việc ở miền Nam hơn 20 năm trước khi chiến cuộc Việt Nam kết thúc; khi đọc 2 câu thơ cuối nêu trên, trong toàn bài thơ 26 câu, tôi cảm nhận như ḿnh có một phần trách nhiệm đối với tác giả và cảm thông với ông, đă phải chịu đựng một cuộc sống nghiệt ngă lâu dài trong nhà tù miền Bắc. Ông đă hoài công mong đợi ‘ánh sáng miền Nam’, nhưng rốt cuộc ông đă không nh́n thấy. V́ thế, ông đă ở tận cùng của sự thất vọng. Tôi suy đoán là ông đă bỏ xác trong ngục tù, v́ qua nhiều bài thơ ‘phản động’ tôi đă đọc trong tập thơ ‘Vô Đề’, ông dám ‘khi quân’ với lời lẽ cực mạnh giữa thời điểm năm1975 là thời điểm mà cường độ tâng bốc ‘bác và đảng’ đă biến thiên đến cực đại. Những ai đă trải qua trại tù cải tạo (và có thể ngay cả ở ngoài), đều rơ vào thời điểm này, chỉ cần vô t́nh có tư tưởng ‘phạm huư’ cũng đă bị ngục h́nh hoặc mất mạng chứ đừng nói đến tội ‘khi quân’ nặng nề như tác giả.
Ở câu thứ 9 của bài thơ, tác giả đă tâm sự: ‘Đau đớn này không phải chỉ riêng ta’. - Thật vậy! Khi miền Nam tiêu tan, không phải chỉ một ḿnh tác giả đau đớn, mà cả nước, đặc biệt là dân chúng miền Nam có cùng tâm trạng đau đớn như ông vào ngày 30-4-1975. Đau đớn, không chỉ nói về thân xác bị cực h́nh, tài sản bị tước đoạt mà hơn thế, c̣n v́ thảm cảnh: con mất cha, vợ mất chồng, chồng mất vợ, bạn bè, anh, chị, em mất nhau.
Ở câu thứ 5 và thứ 6 ông nhận định rất chính xác như sau:
Hạnh phúc, niềm mơ, nhân phẩm, luân thường
Đảng tới là tan nát cả.
Dân chúng miền Bắc đă từng biết đến, hoặc đă là nạn nhân, hoặc là gia quyến của nạn nhân qua các vụ: con đấu tố cha, vợ đấu tố chồng, bạn bè đấu tố lẫn nhau trong chính sách ‘cải cách ruộng đất’ xảy ra từ 1953 đến 1956, chắc hẳn phải thấm thía ư nghĩa của 2 câu thơ này. Khi đảng đến, rùng rợn như thế nào! Bây giờ là lúc kiểm nghiệm lại. Nhưng hai câu thơ 5 và 6 mới chỉ đề cập đến niềm đau về tâm lư của con người khi bị cắt đứt liên hệ với truyền thống gia đ́nh, bằng hữu và xă hội. Truyền thống ấy đă bị tàn phá từ gốc tới ngọn khi ‘ánh sáng’ Mác-Lênin lùa vào quê hương và dưới bàn tay đẫm máu của ‘đảng’, được khuyến khích bởi Tố Hữu, trưởng ban văn hóa tư tưởng trung ương Đảng: “Giết! Giết nữa, bàn tay không phút nghỉ. Cho ruộng đồng luá tốt, thuế mau xong”. Riêng miền Nam, trước ngày ‘đảng’ đến với dân Saigon bằng xe tăng Nga, c̣n phải kể thêm niềm đau: sự bội ước của đảng khi họ kư vào Hiệp Định Paris 1973; v́ thái độ vô trách nhiệm của quốc tế tham dự vào Hiệp Định này; và v́ sự thất hứa của ‘đồng minh’ đối với dân chúng miền Nam. Nh́n tổng quát sau Tháng 4-1975, tất cả các sự kiện trên kếp hợp lại đă đưa đất nước đến thảm cảnh nhà tan cửa nát, đầy thác loạn!
Bằng 2 câu đầu của bài thơ, với ư trách móc, tác giả cho rằng:
V́ ấu trĩ, thờ ơ, u tối,
V́ muốn an thân, v́ tiếc máu xương.
Cho nên miền Nam mới bị tiêu tan; mới để cho đám ‘sài lang dựng xong nền thống trị’(câu 22)
Có lẽ những người miền Nam đă từng sống qua giai đoạn lịch sử từ những năm 1940, đều có thể kiểm nghiệm được giá trị của bài thơ ‘V́ Ấu Trĩ’ của tác giả Khuyết Danh. Nhưng nếu nghiền ngẫm sâu hơn về ư nghĩa của từng chữ trong tổng số 194 chữ lồng vào bài thơ này, người đọc c̣n có thể hồi tưởng lại được nỗi chua xót lúc miền Nam bị tiêu tan ra sao. Và cảm thông được lời trách móc, nỗi phẫn uất, bi thương, ai oán, khi tác giả dơi theo đốm sáng cuối cùng trên ṿm trời miền Nam -- là đốm sáng duy nhất, đă từ lâu ông đặt hết niềm tin, hy vọng vào -- th́ nay đă vụt tắt. Sau đó, v́ không c̣n một nguồn hy vọng nào để bám víu (!) và với tâm trạng năo nề, niềm thất vọng tột cùng, đă khiến tác giả mượn lời ‘những bào thai trong bụng mẹ trót sinh ra’(câu 12) để nguyền rủa ‘lũ ông cha’ v́ đă để chúng sinh ra trong một xă hội ‘vô luân’; và nguyền rủa chính tác giả v́ đă lầm lỗi để mọi người ‘sa xuống hầm tai vạ’. Tác giả đă tự hỏi và tự trả lời: ‘Lỗi lầm tại ai? Xét ra tất cả.’(câu 15)
Chúng ta thông cảm nỗi niềm chua xót tột cùng đó của tác giả, chúng ta thương tiếc ông, nhưng cũng cần minh định lại là: dân miền Nam, hay nói rơ ra là toàn dân 3 miền quê hương không hề ‘thờ ơ’ với hoàn cảnh của đất nước. Chắc hẳn, đó chỉ là lời trách móc, bộc phát trong lúc tâm trạng cực kỳ căng thẳng. Toàn dân cũng không hề ‘muốn an thân và tiếc máu xương’(câu 2) mà phải nói là toàn dân, nhất là dân miền Nam đă đổ nhiều máu xương để chống giặc. Giặc đây, là loài giặc đỏ. Thế nhưng chỉ v́ ‘ấu trĩ’ và ‘u tối’ của một số người ‘ăn cơm Quốc gia thờ ma Cộng sản’ nên đất nước mới ra nông nỗi bị ‘sa xuống hầm tai vạ’.
Rất đúng khi tác giả muốn nhắc lại, ngay từ buổi b́nh minh chống giặc Tây, những năm đầu của thập niên 1940, v́ ‘ấu trĩ’, ‘u tối’, nên nhiều người đă không nhận ra sự ‘hung hiểm gian ngoan’ của đảng dưới nhăn hiệu ‘Việt Minh’. Vào thời ấy, nhiều người lầm lẫn về bản chất của nó (Việt Minh), như lời tác giả diễn đạt về ‘quân thù’ ở câu 17. ‘Quân thù’ đây chính là ‘đảng’. V́ không nhận ra sự hung hiểm gian ngoan của đảng, cho nên nhiều nhà ái quốc đă sa vào lưỡi hái tử thần. Đứng đầu đảng là Hồ Chí Minh, một con người cực kỳ hung hiểm gian ngoan, nhiều tham vọng. Một tên tay sai đắc lực của Nga-Tàu, cực kỳ dă man trong lịch sử cận đại. Nhưng vào thời kỳ chống Pháp, hắn núp trong vỏ bọc quốc gia yêu nước, ít ai hiểu được. Chính là v́ ‘ấu trĩ’ và ‘u tối’.
Cái ‘ấu trĩ’, ‘u tối’ mà tác giả muốn ám chỉ, trước hết là những người sống vào lúc vàng thau lẫn lộn (thập niên 1940), khó nhận biết chính/tà, th́ đă đành, không mấy đáng trách. Nhưng cái ‘ấu trĩ’ ‘u tối’ của giới trí thức trong cái gọi là ‘Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam’, muộn màng ra đời vào Tháng Chín 1960, sau Đại hội III của đảng giặc, mới thật sự đáng trách. Nh́n lại quá khứ của lịch sử th́ MTDTGPMN đúng là một gánh xiệc, được nhào nặn do sáng kiến của đảng. Toàn bộ gánh xiệc Mặt Trận này, giới b́nh dân miền Nam đă một thời gọi là mặt trận ‘côn đồ’, núp dưới danh nghĩa ‘do nhân dân miền Nam nổi lên chống chính quyền’, đă bị đảng giặc xỏ mũi lôi đi tŕnh diễn khắp nơi.
V́ tham vọng, Cộng đảng không ngừng tăng cường sức phá hoại miền Nam. Để hỗ trợ cho gánh xiệc ‘Mặt Trận DTGPMN’ vừa mới khai sinh -- đảng đă không ngần ngại đẻ thêm ra gánh xiệc khác lấy tên là ‘Đảng Nhân Dân Cách Mạng’ sử dụng riêng cho miền Nam nhưng ít ai biết, do Vơ Chí Công đứng đầu gánh, ra đời vào Tháng 5-1962. Trước đó, cũng c̣n phải kể thêm gánh xiệc trên vùng Tây Nguyên mang tên ‘Phong Trào Tây Nguyên Tự Trị’, do Y Bih Aleo đứng đầu gánh, ra đời vào Tháng 5-1961, với cùng mục đích phá hoại như trên nhưng cũng ít ai biết, v́ nó len lỏi trong các sắc tộc Tây Nguyên.
Thấy vẫn chưa đủ mạnh để làm rối loạn miền Nam, đảng lợi dụng t́nh h́nh chính trị không ổn định sau khi chính phủ Ngô Đ́nh Diệm bị ‘đồng minh và tay sai’ lật đổ ngày 02-11-1963 -- cho ra đời nhiều gánh xiệc khác nữa như: ‘Liên Minh Dân Tộc, Dân Chủ, Ḥa B́nh’ ra đời Tháng 5-1968; ‘Chánh Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam’ ra đời Tháng 6-1969 -- nhằm tăng cường hỗ trợ cho gánh xiệc ‘mặt trận Dân Tộc GPMN’ đă khai sinh từ trước.
Ngoại trừ Vơ Chí Công và Y Bih Aleo, đứng đầu mỗi gánh xiệc là một trí thức tên tuổi của miền Nam như: Nguyễn Hữu Thọ đứng đầu gánh Mặt Trận DTGPMN; Trịnh Đ́nh Thảo đứng đầu gánh Liên Minh DCHB; Huỳnh Tấn Phát đứng đầu gánh Chánh Phủ CMLTMN. Mỗi gánh xiệc có một lối tŕnh diễn khác nhau, nhưng toàn bộ nội dung của các màn xiệc đều do đảng giặc soạn thảo hướng vào mục đích thôn tính miền Nam. Các diễn viên chỉ biết tŕnh diễn và không được phép góp ư. Chẳng hạn như màn xiệc có tên ‘mừng chiến thắng 30 tháng Tư 1975’ được tŕnh diễn bằng một buổi ‘diễu binh’ thật ‘hoành tráng’, ngày 15-5. Ngay đến Trương Như Tảng, bộ trưởng Tư pháp của gánh Chánh Phủ CMLTMN cũng không được biết nội dung màn xiệc này ra sao. Khi ngồi trên khán đài chứng kiến buổi ‘diễu binh’, ông quay sang hỏi tướng giặc Văn Tiến Dũng, người chỉ huy cuộc diễu binh: ‘Các sư đoàn 1, 3, 5, 7, 9 sao không thấy hiện diện?’ -Văn T. Dũng cười nụ trả lời: ‘Quân đội bây giờ thống nhất rồi.’
Như mọi người đă biết, sau một năm ‘Saigon giải phóng’, tất cả các gánh xiệc kể trên không được phép hoạt động nữa. Ngay cả không được phép tổ chức đám tang cho từng gánh xiệc! Mà chỉ được phép âm thầm tuyệt đối, nằm yên trong viện bảo tàng của đảng. Đấy là cái ‘ấu trĩ’, ‘u tối’ về chính trị của một số trí thức miền Nam trong cuộc chiến 1954-1975. Cái ‘ấu trĩ’, ‘u tối’ của họ, không những chỉ đưa miền Nam, mà cả nước ‘sa xuống hầm tai vạ’. Đó là một sự thật lịch sử đáng quan tâm. Một sự ‘u tối’ đáng trách!
Đáng trách là v́ đám trí thức miền Nam đă không nhận thức được sự gian manh của Hồ Chí Minh và đồng đảng qua nhiều biến cố lịch sử xảy ra ở miền Nam từ đầu thập niên 1940 cho đến khi họ tự đặt ḿnh dưới sự chỉ đạo ba láp của đảng. Họ không rút tỉa được kinh nghiệm từ những người đi trước như các ông: Huỳnh Văn Phương, Hồ Văn Ngà, Dương Văn Giáo, Hồ Vĩnh Kư, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Phan Văn Chánh, Tạ Thu Thâu,…các vị lănh đạo các tôn giáo Cao Đài, Ḥa Hảo, v.v… và c̣n rất nhiều, nhiều người khác nữa đă bị thủ tiêu dưới bàn tay “tên sát nhân Việt Minh” Trần Văn Giàu và những người cộng tác với hắn ra sao. Họ cũng không quan tâm đến việc Hồ Chí Minh đă nhận chỉ thị của quan thày giặc Tàu phải ‘Rèn cán, Chỉnh quân’ như thế nào. Họ không cần biết đến chỉ thị của Mao Sin Tung, Hồ phải thanh lọc hàng ngũ như thế nào, để đưa đến hậu quả là nhiều người vô tội bị nghi ngờ, bị truy lùng, và bị thủ tiêu, bị ‘sa xuống hầm tai vạ’. V́ không quan tâm đến những sự kiện đó, theo tác giả Khuyết Danh, họ chính là những người ‘ấu trĩ’, ‘thờ ơ’ và ‘u tối’. Cái ‘u tối’ của Hồ Chí Minh và đồng đảng là đi làm tay sai cho giặc Tàu; c̣n cái ‘u tối’ của một số trí thức miền Nam là đă nghe theo lời dụ dỗ láo lếu của Hồ. Nếu chỉ nói riêng về mặt lư luận, th́ cái ‘u tối’ của một người thất học, hành động vô luân như Hồ lại không đáng trách bằng cái ‘u tối’ của những người mệnh danh là trí thức được ăn học đến nơi đến chốn. Chính cái ‘u tối’ của ‘trí thức’ đă góp phần tích cực làm cho miền Nam tan nát.
Miền Nam đă mất vào tay giặc từ năm 1975, là năm bài thơ “V́ Ấu Trĩ” của tác giả Khuyết Danh ra đời. Lúc đó tác giả than thở bằng hai câu thơ 19 và 20:
Nghĩ tới ngày mai ḷng ta tan tác
Đến bao giờ lấy lại được giang san!
Cái ‘ngày mai’ của tác giả tính đến ngày nay đă 36 năm (1975-2011), là thời gian người Việt trong và ngoài nước không ngớt nghĩ cách ‘lấy lại giang san’ -- bằng cách này hay cách khác, muốn loại bỏ ‘chế độ này trâu ngựa sống không an’ (câu 21) -- th́ vẫn c̣n những kẻ ‘ấu trĩ’, ‘thờ ơ’, ‘u tối’ đang bước vào vết xe cũ. Họ là ai? -Họ là những Việt kiều yêu quái, theo thi sĩ Khuyết Danh, là những ‘kẻ mơ hồ trong hưởng lạc’(câu 18), tự ư bôi phân vào mặt, về nước giúp sức cho bạo quyền Hanoi, ca tụng ‘đảng quang vinh’. Họ biện minh rằng ‘bây giờ không c̣n CS nữa mà chỉ có tư bản đỏ’. Thế nhưng xin hỏi: Tư bản đỏ là những ai? Điều 4 hiến pháp ai lập ra và đang minh thị điều ǵ ? Cờ máu sao vàng và cờ máu búa liềm vẫn c̣n đó, đang biểu thị cho cái ǵ? Ai kiểm soát quốc hội VC và những ai được phép vào quốc hội? Trong ngành tư pháp ai là quan ṭa, ai là công tố? Ai đang nắm quyền sinh sát dân trong tay? Ḱa! Hăy nh́n khẩu hiệu ‘c̣n đảng là c̣n công an’. Ḱa! Hay nghe công an nói ‘ta là luật, luật là ta’. Tại sao lại phải duy tŕ chế độ ‘đảng uỷ’ trong toàn bộ hê thống công quyền, kể cả trường học, bệnh viện, nhà tù, ngay cả trong các tổ chức dân phố, dân sự? Như vậy th́, tự do ở chỗ nào? Chỗ nào có tự do? Chỗ nào không có đảng?
Điều đáng nói là trong đám ‘Việt kiều yêu quái’, không thiếu ‘trí thức’. Thế mà ‘trí thức’, theo nhận xét của Mao Sin Tung, th́ giá trị không đáng cục phân. Đám chóp bu trong Cộng đảng, từ khởi thuỷ, đa phần là những kẻ vô học, vô luân, nhưng rất nhiều quỷ kế chiêu dụ ‘trí thức’. Trí thức th́ vẫn cứ ‘u tối’ đi làm nô lệ cho bọn vô luân. Bắt chước lề lối phong kiến, cha truyền con nối, ngày nay lớp con cháu của đám chóp bu trong đảng vẫn tiếp tục con đường cũ, thừa hưởng di sản cha/ông họ để lại: - di sản về tiền tài, tích luỹ từ nhiều đời hối lộ, mánh mung; - di sản về cách ăn cướp, ăn cắp ‘cướp đêm là giặc cướp ngày là quan’; - di sản về danh lợi đă nhiều năm kinh nghiệm trong nghề cờ gian bạc lận, gian lận trong quan trường, trong chính trường và trong thương trường. Nhưng đảng giặc đỏ biết rất rành tâm lư đám ‘Việt kiều yêu quái’, tâm lư ‘trí thức’ và biết cách ban bố ân huệ cho từng người.
Đă 36 năm ‘Saigon giải phóng’, 36 năm ngục tù.
Liệu ‘Ai đứng dậy diệt trừ lũ quỷ?’(câu 23)
Xin để câu trả lời cho các bạn trẻ trong và ngoài nước.
Vơ Phương
Tháng Tư 2011
Ghi chú:
V̀ ẤU TRĨ
V́ ấu trĩ, thờ ơ, u tối
V́ muốn an thân, v́ tiếc máu xương.
Cả nước đă quay về một mối,
- Một mối hận thù một mối đau thương!
Hạnh, phúc, niềm mơ, nhân phẩm, luân thường
Đảng tới là tan nát cả!
Lịch sử sang trang phũ phàng tai họa
Nào đâu chính nghĩa thắng gian tà?
Đau đớn này không chỉ riêng ta
Mà tất cả!
Cả những kẻ nằm trong mả
Và những bào thai trong bụng mẹ trót sinh ra
Chúng sẽ có quyền nguyền rủa lũ ông cha
Đă để chúng sa xuống hầm tai vạ.
Lỗi lầm tại ai? Xét ra tất cả
Mấy ai người đem hết tâm can?
Trước quân thù hung hiểm gian ngoan
Biết bao kẻ mơ hồ trong hưởng lạc!
Nghĩ tới ngày mai ḷng ta tan tác
Đến bao giờ lấy lại được giang san!
Chế độ này trâu ngựa sống không an
Sài lang đă dựng xong nền thống trị.
Ai đứng dậy diệt trừ lũ quỷ?
Ai trái tim lân mẫn vạn dân tàn
Miền Nam ơi, từ buổi tiêu tan
Ta sống trọn vạn ngàn cơn thác loạn!
Khuyết Danh
ANH HÙNG DÂN TỘC: Cố Thiếu Tướng Lê Văn Hưng
[CENTER][IMG]http://i56.tinypic.com/2vll08y.jpg[/IMG][/CENTER]
[COLOR="blue"] "Tướng mà không giữ được nước, không bảo vệ được thành, th́ phải chết theo thành, theo nước, chớ không thể bỏ dân, bỏ nước, trốn chạy, cầu an. Tôi chết rồi, các anh hăy về với gia đ́nh, vợ con. Nhớ rơ lời tôi căn dặn: Đừng bao giờ để bị Cộng Sản tập trung các anh, dù tập trung dưới bất cứ h́nh thức nào. Tôi có lời chào vĩnh biệt các anh"[/COLOR]
(Cố Thiếu tướng Lê Văn Hưng).
Thiếu Tuớng LÊ VĂN HƯNG, " Anh hùng tử thủ An Lộc "
Ông sinh ngày 27 Tháng Ba năm 1933 tại Hóc Môn.
Sau khi tốt nghiệp khóa 5 (V́ Dân) Sĩ quan trừ bị Thủ Đức vào tháng 1 năm 1955, Lê Văn Hưng trải qua các chức vụ chỉ huy từ cấp đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn tại chiến trường miền Tây Nam phần.
Năm 1966 ông được thăng cấp Thiếu tá giữ chức Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 31 bộ binh. Thời gian này Lê Văn Hưng được các phóng viên chiến trường gọi là một trong ngũ hổ (năm con hổ) U Minh Thượng
Năm 1967 ông thăng cấp Trung tá rồi Đại tá năm 1968. Hai năm sau ông được bổ làm tỉnh trưởng Phong Dinh.
Năm 1971 Lê Văn Hưng được bổ nhiệm giữ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ Binh
Năm 1972 ông được thăng cấp chuẩn tướng giữ chức tư lệnh phó Quân khu 3 sau khi chiến thắng chiến trường An Lộc.
Năm 1973 Lê Văn Hưng được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ Binh,
Năm 1974, ông đảm nhận chức vụ Tư lệnh phó Quân đoàn 4
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 tại văn pḥng riêng ở bộ chỉ huy phụ của Quân đoàn 4, sau khi nói lời từ giă với gia đ́nh và bắt tay từ biệt tất cả binh sĩ bảo vệ bộ chỉ huy, người được gọi là "Anh hùng tử thủ An Lộc" do những chiến tích trong Trận An Lộc đă tự sát bằng súng lục vào lúc 20 giờ 45 tối tại tư gia.
Lược ghi về đời binh nghiệp của Tướng Lê Văn Hưng
Tướng Lê Văn Hưng xuất thân khóa 5 Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức, măn khóa vào tháng 1/1955. Sau ngày ra trường, ông đă có một thời gian dài chiến đấu tại chiến trường Miền Tây qua các chức vụ các chức vụ chỉ huy từ cấp đại đội, tiểu đoàn, Trung đoàn thuộc Sư đoàn 21 Bộ binh (BB). Năm 1966, ở cấp Thiếu tá, ông là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2/Trung đoàn 31 BB. Cũng trong năm 1966, ông được các phóng viên chiến trường vinh danh là một trong năm ngũ hổ U Minh Thượng (ngoài Tiểu đoàn trưởng Lê Văn Hưng, 4 sĩ quan khác là: Thiếu tá Lưu Trọng Kiệt, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 42 BĐQ; Thiếu tá Nguyễn Văn Huy, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 44 BĐQ, Đại úy Vương Văn Trổ, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3/33BB; Đại úy Hồ Ngọc Cẩn, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1/33BB).
Năm 1968, ở cấp bậc Trung tá, Sĩ quan Lê Văn Hưng là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 31 BB. Ông đă chỉ huy Trung đoàn 31 BB lập nhiều chiến tích tại chiến trường Hậu Giang. Cũng trong thời gian chỉ huy trung đoàn 31BB, ông đă được thăng cấp đại tá. Giữa tháng 6/1971, ông được bổ nhiệm giữ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 5 BB khi c̣n mang cấp đại tá, hơn 9 tháng sau, ông được thăng cấp chuẩn tướng, tiếp tục giữ chức Tư lệnh Sư đoàn này đến ngày 3 tháng 9/1972, sau đó được cử giữ chức tư lệnh phó Quân khu 3. Một năm sau, Tướng Hưng được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 21 BB, cuối tháng 10/1974, ông đảm nhận chức vụ Tư lệnh phó Quân đoàn 4 và đă tự sát vào tối ngày 30 tháng 4/1975 tại Cần Thơ.
Tướng Lê Văn Hưng và Sư đoàn 5 BB tại B́nh Long hè 1972:
Trong suốt 20 năm chiến đấu trên chiến trường miền Đông Nam phần, Sư đoàn 5 BB đă tham dự nhiều cuộc hành quân quy mô, và đă lập nhiều chiến công lớn. Riêng trong cuộc chiến mùa Hè 1972, Sư đoàn 5 BB dưới quyền chỉ huy của Tướng Lê Văn Hưng, đă cùng với các đơn vị Nhảy Dù, Biệt động quân, Biệt cách Nhảy Dù và các đơn vị tăng viện giữ vững An Lộc.
Trận chiến tại B́nh Long đă bắt đầu vào ngày 4/4/1972 khi 1 trung đoàn CSBV tấn công một chi đội chiến xa tăng phái cho Trung đoàn 9 BB từ biên giới rút về tăng cường cho lực lượng pḥng thủ Lộc Ninh. Ngày 5/4/1972, Cộng quân (CQ) bắt đầu tấn công vào bộ chỉ huy Chi khu Lộc Ninh và hậu cứ Trung đoàn 9 BB đặt trong quận lỵ. Địch đă mở đầu trận tấn công bằng trận địa pháo và sau đó tung bộ binh, thiết giáp tấn công cường tập. Lực lượng trú pḥng đă chống trả quyết liệt. Vào trưa cùng ngày, CQ bị đẩy lùi khi cố đánh chiếm phi đạo. Ngày 6 tháng 4/1972, CQ mở đợt tấn công mới với sự yểm trợ của 1 tiểu đoàn chiến xa T54 với khoảng 30 chiếc. Pháo binh VNCH tại Lộc Ninh đă phải hạ ṇng bắn trực xạ vào các chiến xa CSBV đang tiến tới, nhưng do áp lực quá nặng của CQ, thị trấn Lộc Ninh bị tràn ngập, một thành phần của đơn vị pḥng đă vượt thoát khỏi ṿng vây của địch và về đến An Lộc. Sau khi trận tấn công của CQ vào Lộc Ninh diễn ra, Trung tướng Nguyễn Văn Minh, Tư lệnh Quân đoàn 3, đă khởi động kế hoạch bảo vệ An Lộc.
Theo kế hoạch của Tướng Minh, bộ Tư lệnh Hành quân của Sư đoàn 5 BB cho Tướng Lê Văn Hưng chỉ huy và 2 tiểu đoàn của Liên đoàn 3 BĐQ được trực thăng vận vào An Lộc. Cuộc chuyển quân hoàn tất vào ngày 5 tháng 4/1972. Ngày 7 tháng 4/1972, bộ Tổng tham mưu đă điều động Lữ đoàn 1 Nhảy Dù tăng viện cho Sư đoàn 5 BB. Sáng ngày 16 tháng 4/1972, Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù được lệnh tiếp ứng cho mặt trận B́nh Long. Về các đơn vị thuộc Sư đoàn 5 BB, ngày 11 và 12 tháng 4/1972, Trung đoàn 8 BB được trực thăng vận vào An Lộc. Trước đó, Sư đoàn 5 BB được bộ Tổng tham mưu tăng viện Trung đoàn 52 của Sư đoàn 18 BB. Trung đoàn này đóng ở khu vực cầu Cần Lê, sau cuộc tấn công của CQ vào các ngày 6 và 7 tháng 4/1972 đă bị thiệt hại nặng. Trung đoàn 7 BB và Trung đoàn 9 BB bị tổn thất trong các cuộc tấn công vào thượng tuần tháng 4/1972, đă được bổ sung quân số để cùng với các đơn vị bạn phối trí pḥng thủ bảo vệ An Lộc. Sau hơn hai tháng tử chiến với CSBV, dưới quyền tổng chỉ huy của Tướng Lê Văn Hưng, Lực lượng VNCH đă giữ vững được An Lộc và sau đó đă khởi động các cuộc phản công giải tỏa áp lực địch ở các khu vực phụ cận thị xă tỉnh lỵ.
Câu chuyện về Tướng Lê Văn Hưng tại mặt trận An Lộc:
Trong hơn 2 tháng tổng chỉ huy lực lượng VNCH tại mặt trận An Lộc, Tướng Lê Văn Hưng đă cùng với quân sĩ các cấp giữ vững pḥng tuyến tỉnh lỵ B́nh Long. Trong những giờ phút căng thẳng nhất của cuộc chiến, ông đă nêu gương sáng cho các sĩ quan thuộc quyền về phong cách chỉ huy. Giữa tháng 6/1972, một nhóm phóng viên từ Sài G̣n đă đến bộ tư lệnh Hành quân của Tướng Hưng. Qua tiếp xúc với vị Tư lệnh chiến trường An Lộc, một phóng viên VTVN đă viết về tướng Hưng như sau.
Bước vào lối đi nhỏ hẹp, đó là con đường dẫn xuống trung tâm hành quân của Tướng Lê Văn Hưng, Tư lệnh mặt trận B́nh Long. Căn hầm tù mù, 1 ngọn đèn duy nhất chừng 45 nến chỉ mang lại một chút ánh sáng vàng vọt, không đọc được bức thư. Sau này, chúng tôi (phóng viên) được biết Tướng Hưng chuẩn bị cho những ngày phong tỏa kéo dài, ông có ba máy phát điện riêng nhưng nhất quyết chỉ sử dụng một máy mà công suất chỉ đủ dùng cho hệ thống siêu tần số và các máy liên lạc, c̣n thừa lại là ánh điện mờ trong hầm chỉ huy.
Tướng Hưng tự hạn chế mọi tiện nghi riêng cho sự sống c̣n của B́nh Long. Nếu không c̣n mạch điện cung cấp cho hệ thống liên lạc th́ An Lộc sẽ thất thủ tức khắc. Ngoài căn hầm trung tâm hành quân, Tướng Hưng c̣n lại một căn hầm nhỏ dành riêng cho ông và nơi này chỉ được thắp sáng khi cần, bằng pin với bóng đèn xe đạp. Tướng Hưng chỉ sử dụng 1 máy phát điện, hai máy c̣n lại phải pḥng hờ cho trường hợp máy đang phát bị trúng đạn pháo kích. Hơn nữa mức dự trữ nhiên liệu chỉ đủ cho thời gian 1 tuần lễ.
Theo lời yêu cầu của Tướng Hưng, bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 có thả dù các phuy xăng nhưng trong 10 thùng khi chạm đất th́ đă phát nổ đến 9 thùng. Có những ngày Tướng Hưng phải ra lệnh đi mót xăng từ các xe cộ nằm rải rác trong thành phố. Nhiều người đă chết trong công tác tầm thường này, nhưng chính là sự hy sinh đầy ư nghĩa cho sự đứng vững của An Lộc, trong hơn hai tháng trời khói lửa.
Trong trung tâm Hành quân tù mù, Đại úy Quí, sĩ quan báo chí Sư đoàn 5 BB, tŕnh diện Tướng Hưng và giới thiệu từng người trong nhóm phóng viên. Tướng Hưng mặc áo thun xanh và có nụ cười hiền từ, ông bắt tay mọi người và khất hẹn đến sau phiên họp hành quân sẽ để phóng viên phỏng vấn. Căn hầm Tướng Hưng rất hẹp so với số người chen chúc làm việc, kích thước chỉ chừng 4 x 10 mét, tất cả bộ tham mưu của ông làm việc dưới này và không một ai có quân phục đàng hoàng, không mặc áo thun th́ cũng ḿnh trần.
Vào buổi chiều, Tướng Hưng ra khỏi hầm để nhóm phóng viên thực hiện 1 “show” dă chiến, anh em nhận rơ khuôn mặt gầy g̣ rất có nét của ông. Điểm đặc biệt là làn da ông trắng xanh sau hơn hai tháng trời làm việc dưới hầm, tránh các trận pháo kích kinh hoàng mà có lúc đă lên tới 7,500 trái mỗi ngày. Trong cuộc phỏng vấn, Tướng Hưng thay v́ nói về ḿnh đă chỉ đặc biệt đề cao tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ thuộc mọi quân binh chủng đă giữ vững An Lộc và t́nh cảnh bi đát của mấy chục ngàn đồng bào kẹt giữa vùng lửa đạn B́nh Long.
Tướng Hưng trở lại chiến trường miền Tây:
Đầu tháng 9/1972, Tướng Hưng được cử giữ chức Tư lệnh phó Quân khu 3, đặc trách chỉ huy lực lượng đặc nhiệm phản ứng cấp thời. Một năm sau, ông trở lại Sư đoàn 21 BB với chức vụ Tư lệnh Sư đoàn. Trong năm 1974, Tướng Hưng đă điều động các đơn vị trực thuộc mở những cuộc hành quân đánh bật CSBV tại chiến trường Hậu giang. Cuối tháng 10/1974, Tướng Hưng bàn giao chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 21 BB cho Đại tá Mạch Văn Trường, nguyên Trung đoàn trưởng Trung đoàn 8 BB tại chiến trường An Lộc Hè 1972, để về Cần Thơ giữ chức Tư lệnh phó Quân đoàn 4.
Tướng Hưng đă tự sát vào tối ngày 30/4/1975 tại văn pḥng riêng ở bộ chỉ huy phụ của Quân đoàn 4 (đồng thời là nơi gia đ́nh Tướng Hưng tạm cư trú), sau khi nói lời từ giă với gia đ́nh và bắt tay từ biệt tất cả quân sĩ bảo vệ bộ chỉ huy. Sau đó, ông đă quay vào văn pḥng, khóa chặt cửa và tự sát bằng súng lục vào lúc 8 giờ 45 phút tối 30/4/1975.
Tin tổng hợp
Tigon
TƯỚNG LÊ NGUYÊN VỸ CHẾT THEO THÀNH
Tưởng Niệm Quốc Hận 30-04-75
TƯỚNG LÊ NGUYÊN VỸ CHẾT THEO THÀNH
[CENTER][IMG]http://i51.tinypic.com/o6z3ms.jpg[/IMG][/CENTER]
Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ (1933-1975) là Tư lệnh Sư đoàn 5 bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hoà, là một trong năm tướng lĩnh đă tự sát trong sự kiện 30 tháng 4, 1975.
Ông sinh ngày 22 Tháng Tám năm 1933 tại Sơn Tây.Năm 1951 ông theo học khóa 2 (Lê Lợi) trường Vơ bị Địa phương Huế đến năm 1965 th́ thăng Thiếu tá.
Ông tham gia trong chiến trường An Lộc tử thủ căn cứ chỉ huy. Sau khi chiến thắng, được đề bạt lên làm Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 21 Bộ Binh.
Năm 1974, ông được thăng chuẩn tướng sau khi học một khóa học chỉ huy và tham mưu cao cấp tại Hoa Kỳ và giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh
Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ về đảm nhiệm chức vụ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh vào khoảng giữa năm 1973, khi ông vẫn c̣n mang cấp bậc Đại Tá. Ông nổi tiếng về tinh thần dũng cảm và chống cộng cương quyết, cũng như tính t́nh nóng như lửa cuả ông.
Vào mùa Hè năm 1972, Đại Tá Lê Nguyên Vỹ, Phó Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh đă có mặt ở Bộ Chỉ Huy Tiền Phương của Sư Đoàn tại An Lộc cùng Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Đoàn. Họ đâu biết rằng họ sẽ là chứng nhân cho một biến cố lịch sử.
Rạng sáng ngày 5 tháng 4 năm 1972, Cộng Sản Bắc Việt xua bốn sư đoàn (5, 7, 9 và B́nh Long) và hai trung đoàn xe tăng 202, 203 nhiều đơn vị yểm trợ tấn công thị xă An Lộc. Cộng quân đă dùng những trận mưa pháo để chà nát và san bằng thị xă nhỏ bé nàỵ Hàng ngàn đồng bào vô tội đă bỏ ḿnh dưới hỏa lực của Cộng quân.
Nhiều lần, Cộng Sản Bắc Việt dùng chiến xa T-54 tấn công thẳng vào nơi Chỉ Huy Tiền Phương của Sư Đoàn 5 đang đóng. Lần đầu tiên người lính VNCH gặp phải chiến xa địch, lại không tin tưởng vào khả năng của vũ khí của ḿnh, nên đă hoảng hốt t́m nơi ẩn tránh. Không thể trách họ, v́ hoả tiễn M72 không đủ sức xuyên phá nếu bắn vào đằng “mũi” của xe T-54. Khi ấy tướng Hưng đă cầm sẵn một trái lựu đạn nơi tay, với ư định nếu Việt Cộng tràn vào, ông tung ra, tất cả cùng chết. Chiếc chiến xa đi đầu đă tiến gần, quay ngang quay dọc để t́m kiếm trung tâm chỉ huỵ Đại Tá Vỹ thừa cơ đứng lên, bắn một quả đạn M72 vào hông xe làm chiếc xe tăng bốc cháỵ Binh sĩ lên tinh thần theo phương pháp diệt xe của Đại Tá Vỹ, ḅ theo nhũng vách tường, bờ giậu để bắn xe đich. Kết quả là đoàn xe bị tiêu diệt.
Sau 68 ngày tử thủ, Cộng quân bị đánh lui và An Lộc được giải toả. Đại Tá Lê Nguyên Vỹ được thăng cấp Chuẩn Tướng và về chỉ huy Sư Đoàn 5 Bộ Binh tại căn cứ Lai Khê (B́nh Dương) khi Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng đi nhận nhiệm vụ mới ở Quân Khu IV.
Tại Lai Khê, ông làm việc không kể giờ giấc, ngày đêm, trong việc xây dựng và tu bổ hệ thống pḥng thủ, cũng như huấn luyện binh sĩ. Ông cũng rất nhiệt t́nh trong việc bài trừ tệ nạn và tham nhũng trong hàng ngũ quân độị V́ thế, ông đă mang lại miềm tin tưởng cho mọi người .
Cuối tháng 4 năm 1975, quân Cộng Sản Bắc Việt từ nhiều ngả tiến về Saigon. Nhưng cánh quân phía Đông Bắc của chúng không thể vượt qua căn cứ Lai Khê, mặc dù có lực lượng đông gấp nhiều lần. Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ đă làm tṛn nhiệm vu..
Sáng ngày 30 tháng 4, Tổng thống VNCH ra lệnh cho quân đội buông súng đầu hàng. Tướng Vỹ triệu tập sĩ quan và binh sĩ dưới quyền lần cuốị Ông tuyên bố: V́ tôi là tướng chỉ huy mặt trận, tôi không thể thi hành được lệnh nàỵ Tôi nghĩ thân làm tướng, phần nào đă hưởng vinh dự và ân huệ của quốc gia hơn các anh em, nên tôi phải chọn lấy con đường đi cho riêng tôị”
Đoạn ông b́nh tĩnh bước ra sân, nghiêm trang đứng dưới cột cờ của Bộ Tư Lệnh, và rút súng ra tự sát. Lúc đó là 11 giờ sáng 30 tháng 4 năm 1975.
Thi thể Tướng Lê Nguyên Vỹ được an táng trong rừng cao su gần doanh trại Bộ Tư Lệnh, sau đó được thân nhân bốc lên đem về cải táng ở Hạnh Thông Tây, G̣ Vấp. Năm 1987, hài cốt ông được thân mẫu (mẹ) hỏa thiêu và đem về thờ ở từ đường họ Lê Nguyên tại quê nhà ở tỉnh Sơn Tây
Tôn Thất Phú Sĩ Blog